Trong những ngày này lẽ ra Hà Nội phải vui lắm vì cái không khí mùa giải bóng đá Euro, và lẽ ra trận cầu Ý thắng Đức đêm qua sẽ là đề tài hấp dẫn cho sáng nay. Vậy mà không phải, khi Uyên ra quán cà phê trên Yên Phụ ngồi với đám mấy cô cậu sinh viên quen đều thấy trên mặt họ đều có nét lo lắng và bức xúc.
– Biểu tình đấy, các cậu có đi không?
– Còn phải hỏi, đi chứ, sao lại không?
– Nhưng nghe nói các bố ở trên đấu đá nhau, nên định lợi dụng biểu tình…
– Ôi dào, nghĩ sâu xa làm gì cho mệt, mình thấy Quốc hội thông qua luật biển, mình phẫn nộ vì Tàu Khựa vẫn bắt giam ngư dân, vẫn mang giàn khoan đến và cho đấu thầu trên vùng biển của mình… thì mình đi, chứ các bố đấu đá nhau thây kệ các bố ấy chứ.
– Nhưng mà nhỡ họ đàn áp, bắt bỏ tù như Bùi Hằng thì sao?
– Giời ạ, nhưng với chả sao, sốt cả ruột, cậu muốn làm NGƯỜI hay làm NGỢM. Làm người thì đi với tớ, còn muốn làm ngợm thì xéo sang một bên, đừng có ngáng đường người khác, dở người dở ngợm khó chịu lắm.
– Thôi mà, đừng giận người ta tội nghiệp, từ hôm có lời kêu gọi biểu tình đến giờ, người thì bảo là cái bẫy để công an bắt, người thì bảo bị bọn phản động nó lợi dụng khích động biểu tình… tùm lum tùm la, không biết đằng nào mà lần chứ bộ.
– Ối giời ơi cậu tin à, mình có hoạt động hoạt đeo gì mà bắt, còn công an, họ muốn bắt thì thiếu gì cớ để bắt mà phải dụ cậu đi biểu tình, còn bọn phản động nào nó xúi giục thì tốt quá; nó nhắc nhở cho cậu biết cậu vẫn còn là con người đấy, cậu có quyền làm những gì mà luật pháp và Thượng đế đã ban cho con NGƯỜI, hiểu chưa ?
– Hiểu, hiểu. Mình quyết tâm làm NGƯỜI chứ không làm NGỢM.
Mình nghĩ thầm làm nô lệ thì có, chứ ngợm cái gì. Một cô lôi laptop ra, mở máy rồi chìa cho cả bọn chụm đầu lại đọc một bài viết của blogger Dr. Nikonian.
Xin đừng quăng quật
Mùa xuân năm 1974, khi tấm giấy báo tử này bi tráng được ký, tôi vẫn còn là một chú nhỏ ngày hai buổi đến trường. Tuy bao nhiêu năm tháng đã trôi qua, tôi vẫn chưa quên những âm thanh hừng hực ngày ấy. Từ chiếc radio Zenith cũ kỹ của gia đình, đài phát thanh Sài Gòn đã liên tục phát đi những bản hùng ca “Hội nghị Diên Hồng”, “Chi Lăng”, “Hận Nam Quan”,… Nghe nói ông Hoàng Đức Nhã, tổng trưởng dân vận hồi đó đã huy động những nhạc sĩ, ca sĩ nổi tiếng của Sài Gòn ngay trong đêm để cùng lên đài phát thanh, cùng hợp ca những bản nhạc hùng bất hủ ấy.
Lớp nhỏ chúng tôi cũng vậy, cũng cùng nhau hát đến khản giọng trong những buổi sinh hoạt hướng đạo, những ngày đi ủy lạo nạn nhân chiến cuộc hay cứu trợ đồng bào bão lụt.
Hoàng Sa mất vào tay giặc chưa được bao lâu, thì 5 năm sau, cuộc chiến biên giới 1979 nổ ra. Chúng tôi lại được lệnh đào hào, tập bắn súng thật, tập ném lựu đạn… Và được khuyến khích, cổ vũ tối đa việc bày tỏ lòng khinh miệt, căm ghét với “lũ bành trướng sô vanh nước lớn Bắc kinh”, theo từ ngữ của các pa nô chống Trung quốc rợp trời hồi đó.
Ghét Tàu thì không cần cố gắng và tranh luận. Khác với những nền đô hộ mà sự xâm lược luôn đi kèm với một chút khai sáng, 10 thế kỷ đô hộ của người Tàu trên đất nước hình chữ S không hề mang lại điều gì tốt đẹp, trừ công khai hóa về nông nghiệp của Sĩ Nhiếp. Tàn ác như thực dân Pháp mà còn có được Viện Viễn Đông Bác cổ, hội Đô thành hiếu cổ… để nghiên cứu, bảo tồn di sản văn hóa của chính dân tộc mà họ đô hộ. Đó là chưa kể Trường Đại học Y Hà nội, Trường Mỹ thuật Đông dương… đã để lại trong lịch sử Việt Nam những cái tên sáng chói của những trí thức Tây học ngang tầm thế giới.
Còn người Tàu ư? Có dân tộc nào thâm hiểm đến độ đốt sách, chôn nho sĩ… để tuyệt diệt cội rễ văn hóa của dân tộc chúng ta như họ? Có kẻ xâm lăng nào tham lam đến độ ngoài các sản vật trân quý của đất nước, còn bắt cha ông ta phải tiến cống cả danh sĩ, mỹ nữ…, những nguồn gene ngoại hạng của đất nước sang Tàu? Và dù mê tín, cột đồng mà Mã Viện dựng lên với lời nguyền độc địa “đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là khẳng định chắc chắn nhất của dã tâm tuyệt diệt trăm họ Bách Việt trên đất nước chúng ta.
Với những ký ức ghê sợ như thế, đừng ngạc nhiên khi thấy não trạng đề kháng ngoại xâm đã là một phần của căn tính Việt. Vì sao dân tộc chúng ta có thể tồn tại mà không bị đồng hóa sau 10 thế kỷ dưới ách một dân tộc hung hãn như vậy, tự nó là một phép lạ lịch sử ngoại hạng và chưa từng có ở bất cứ dân tộc nào khác.
Trung Hoa lục địa ngày nay vẫn chưa đủ bao la với người Tàu. Biển Đông của chúng ta vẫn là chỗ nhòm ngó của kẻ tham lam. Sự ngang ngược của kẻ cướp đất, cướp biển vẫn xảy ra mỗi ngày, với nhiều mưu mô quỷ quyệt khác nhau. Cả một lịch sử dài hơn 10 thế kỷ, dường như người Tàu vẫn chưa học được những bài học xương máu về chí quật cường của dân tộc chúng ta, nơi mà từ thế kỷ 12, gã lính viễn chinh cha ông của họ khi nhớ tới phải “run sợ đến bạc đầu”.
Hôm nay, khi người Tàu ngang nhiên mời thầu những lô khai thác dầu ở biển Đông, chỉ cách bờ biển Phan Thiết 54 hải lý, đã có nhiều luồng dư luận bên lề khác nhau. Có người cay cú không màng, phủi tay đứng ngoài cuộc. Có kẻ hồ hởi thì thào về ngọn đèn xanh nào đó đã bật cho cuộc xuống đường sắp tới.
Tất cả đều sai! Vì yêu nước thì không cần đèn xanh đèn đỏ. Vì xuống đường biểu thị lòng ái quốc không thể, và không bao giờ là trò chơi để đong đưa hay kiếm chác.
Tôi xuống đường, vì tôi căm phẫn khi đất nước bị xâm hại.
Dẫu không hề ảo tưởng về sự nhún nhường của những kẻ đã cho xe tăng cán nát xương thịt của chính nhân dân mình, tôi đi, vì không muốn thấy xác những ngư phủ anh em phải trở về trong khoang thuyền ướp đá.
Tôi đi, để con cái tôi còn được ăn cá biển Đông, nơi những đội hùng binh thời các chúa Nguyễn đã cỡi thuyền ra giữ nước.
Tôi đi, vì những giọt dầu quí giá của tổ quốc, mà tương lai sẽ là cơm ăn, áo mặc, trường học, bệnh viện… của những thế hệ sau khỏi bị kẻ cướp kia chiếm đoạt.
Tôi đi, vì tôi yêu nước Việt của tôi, và đứng ngoài với mọi trò chơi chính trị.
Chỉ thế thôi, xin đừng quăng quật!

Giấy báo tử của Đại Úy Huỳnh Duy Thạch hy sinh tại trận hải chiến Hoàng Sa