Menu Close

Bản năng Nhà Văn trong xã hội đồng phục (kỳ 2)

Đỗ Hoàng Diệu sinh ngày 5 tháng 2-1976 tại Thanh Hoá, đỗ cử nhân luật và cử nhân báo chí. Xuất hiện lần đầu trên văn đàn hải ngoại với truyện ngắn Tình chuột, in trên Hợp Lưu số 74 (tháng 12/2003-1/2004), rồi liên tiếp: Những sợi tóc màu tang lễ (HL75), Cô gái điếm và năm người đàn ông (HL76), Bóng đè (HL78), Dòng sông hủi (HL80) và Vu quy (HL82). Nổi tiếng ngay. Âm vang vọng về trong nước. Nhà xuất bản Đà Nẵng nhận in tập Bóng đè, trong có ba truyện, Bóng đè, Vu QuyDòng sông hủi cùng với một số truyện ngắn khác. Tập truyện gây xôn xao dư luận và trở thành đối tượng bàn cãi và công kích nhất trong khoảng thời gian gần đây. Tại sao truyện của Đỗ Hoàng Diệu lại gây nên làn sóng chống đối như vậy? Câu trả lời nằm trong tác phẩm. Chúng ta sẽ thấy đằng sau ngôn ngữ là một con người. Sẽ thấy những can đảm của một nhà văn trẻ có tài vừa bước vào văn giới, đã phải đem tài năng và chữ nghĩa của mình để chống chọi với một áp lực xã hội… mà Diệu thấy như “thời Mã Viện”. Đỗ Hoàng Diệu quyết đem “linh cảm” của mình để nhìn và viết về đồng loại, mặc sóng gió, chà đạp. Và đó cũng là “lý do tồn tại” của một nhà văn đích thực. Thụy Khuê

 

Trần Vũ: Xã hội trong Tình Chuột được mô tả như những hang động mà tập thể con người là một bầy chuột, Những Sợi Tóc Màu Tang Lễ với đầy rẫy quái thai, với những quan chức cùng những trí thức biến hoá ma quái mặt xanh mặt vàng. Cô Gái Điếm và 5 Người Đàn Ông phô diễn thế giới ảo giác của những người đàn ông bị ám ảnh tình dục, mỗi người mỗi kiểu. Bóng Đè là câu chuyện của một dân tộc chung sống với rắn. Mô hình xã hội trong sáng tác của Đỗ Hoàng Diệu cho đến nay là mô hình tổ chức bầy đàn của thú vật. Dường như cô đánh mất niềm tin vào tập thể con người và xã hội Việt Nam với cô đang thoái hoá? Người đọc phải hiểu như vậy sau khi đọc các truyện ngắn kể trên?

Đỗ Hoàng Diệu: Trong hang động thường tối tăm nhưng cũng có một vài khoảng sáng. Và thường thì những khoảng sáng ấy thật đẹp, thật quý giá, hiếm hoi. Cũng vậy, đàn thú vật có con hung dữ con hiền lành. Tôi không cố ý xây dựng một mô hình bầy đàn thú vật ẩn mình trong hang động tối tăm. Cô gái trong Tình Chuột dù đã bị những con chuột hôi hám cấu xé, đến lúc cô chết chúng vẫn rình rập quanh cô, nhưng tôi gọi cô ấy là thiên thần. Cô ấy đã sống hết mình vì tình yêu, đã chung thủy đến phút cuối ngay cả khi chuột cống rúc vào thân thể cô. Cô ấy sáng lên rực rỡ trong một hang động tăm tối. Còn ở Bóng Ðè, cô gái mẫn cảm mang trong dáng hình nhỏ bé triệu triệu đam mê, khao khát đến lạ lùng ấy, tưởng chừng phóng đãng, tưởng chừng thác loạn nhưng lại chính là người cứu rỗi lỗi lầm của quá khứ và mơ ước tương lai. Ðánh mất niềm tin không có nghĩa là ngày tận số. Dù hơi tàn lực kiệt, đâu đâu cũng là đêm tối, nhưng còn hơi thở đam mê, còn bàn tay thon kỳ diệu óng ánh dưới nắng, sẽ còn có ngày mai. Cứ yêu người bằng cả trái tim mình đi rồi người sẽ quay về, ánh sáng sẽ chiếu xuống.

Tôi như một người chụp hình. Trong một lúc nào đó, tôi chụp một góc hang động, nơi các con vật đang cắn xé lẫn nhau. Nhưng tôi muốn người đọc nhìn thấy linh hồn của những con vật ấy chứ không phải lông lá của chúng. Và cũng không có nghĩa xã hội Việt Nam đâu đâu cũng đều hang động. Xã hội thoái hoá hay không là do quan điểm của mỗi người, tùy thuộc người đó mang “kính mát” vô tình hay “kính lúp” soi rọi. Bây giờ, tôi đang mang cặp kính viễn thị.

Ra mắt tác phẩm "Bóng Đè" - nguồn letungchau.wordpress.com
Ra mắt tác phẩm “Bóng Đè” – nguồn letungchau.wordpress.com

Trần Vũ: Trong tất cả các truyện cô đã công bố, Bóng Đè đặc biệt hơn hết. Người đọc cảm nhận sức mạnh, chất mê hoặc của truyện xây dựng trên bản năng của tác giả, đã cảm thấu và bắt gặp “một quá khứ phi phàm”, như chữ cô dùng. Dường như với Bóng Đè, Đỗ Hoàng Diệu đặt nghi vấn về sự xâm lấn của lịch sử từ quá khứ hãm hiếp hiện tại và di truyền đến tương lai? Và con người, một tác nhân xã hội, ngoài bản năng không có phương tiện nào khác để chống đỡ, vượt thoát hoặc thay đổi hiện thực của chính mình?

Đỗ Hoàng Diệu: Trong Thư toà soạn số 78, Hợp Lưu cho rằng ở Bóng Ðè, tôi đã “trình bày một tình trạng quỷ quái đến kinh ngạc”. Tôi không nghĩ câu chuyện trong Bóng Ðè là quỷ quái. Bởi tất cả chúng ta, dù muốn hay không, đã được sinh ra từ quá khứ. Quá khứ nặn ra đôi bàn tay, nặn ra tiếng khóc chào đời và nặn luôn thứ mà ta quen gọi là bản năng. Và khi hàng ngày chúng ta vẫn dùng đôi bàn tay để làm việc, để ăn, để âu yếm, quá khứ vẫn ngụ cư trong mỗi con người. Quá khứ nhỏ trong quá khứ phi phàm của cả một dòng họ, một dân tộc, một đất nước. Bóng Ðè là câu chuyện về thân phận một cô gái có bản năng mạnh mẽ kỳ lạ, cô đã bị các thế lực đen tối của ngày hôm qua chọn để cưỡng bức, đưa mầm mống của mình sang hiện tại và tương lai. Không phải ngẫu nhiên thế lực đen tối lại chọn cô gái mà không phải bất cứ một người phụ nữ nào khác. Bởi cô mang trong dáng hình nhỏ bé một bản năng dâng tràn như sóng cuộn, đam mê nồng nàn, sự nhạy cảm thái quá cùng niềm khao khát bỏng cháy. Chính bản năng mãnh liệt này làm cho cô vô cùng quyến rũ, đến cả trăm đời dòng dõi đế vương cũng bị cô mê hoặc. Nhưng cô cũng quá đỗi yếu đuối. Cô không thể chống cự nổi sự hung bạo của ngàn cuộc chiến tranh đã phá huỷ đất nước này, không thể chống cự bao nhiêu lề thói cổ hủ phong kiến ăn sâu vào cội rễ xã hội, và điều làm cô quỵ gục hoàn toàn là cô chẳng thế nào chống lại sự độc ác, tà dâm của con người.

Mỗi sáng sớm, soi mình trong gương, tôi thường có thói quen miết những ngón tay xinh xắn lên vầng trán, viền môi. Ðể biết mình còn sống, để biết súng đạn của những cuộc chiến tranh tàn bạo xa xưa qua những giấc mộng chưa mang tôi đi, và một tương lai ảm đạm phía trước còn chưa nuốt chửng mình. Rồi nhiều khi những ngón tay xinh miết khắp người, để hòng trả lời câu hỏi: tôi là ai, người đàn ông của tôi sao mãi vẫn chưa về? Còn chống đỡ, vượt thoát hoặc thay đổi hiện thực của chính mình? Tôi chỉ là một thiếu nữ có bàn tay mỏng manh, cho dù bàn tay kỳ lạ, nó cũng chỉ năm ngón ngắn dài, nó không với quá được bóng của chính mình trong nắng.

 

Trần Vũ: Bản năng của một nhà văn là yếu tố quan trọng nhất giúp hình thành tác phẩm?

Đỗ Hoàng Diệu: Ðể trả lời câu hỏi này, tôi muốn biết Hợp Lưu nhắc tới tác phẩm loại nào? Tác phẩm mà từng ngôn từ, từng câu văn là những tiếng kêu của nỗi ám ảnh, là từng vết lằn của đòn roi, là tiếng nấc nghẹn khi ân ái… Hay là sự sắp xếp những chữ nghĩa mỹ miều, đao to búa lớn lại với nhau rồi cố ý la to cho cả thế giới biết: tôi đã vật vã để viết nên tác phẩm bất hủ? Trong trường hợp thứ hai này, tôi gọi là sự dối trá chính bản thân mình.

Nói như vậy, không có nghĩa tất cả nhà văn khi viết phải trải qua đau đớn, phải chịu ám ảnh, phải ân ái. Nhưng phàm là người viết văn, phải đau nỗi đau của thân phận mình tạo dựng, để khi đến tay độc giả, người đọc lại đau nỗi đau của nhân vật. Nhân vật ấy có thể chính là hoá thân của tác giả, có thể là bạn bè xung quanh, nhưng cũng có thể chỉ là trong tưởng tượng. Vô hình trung, một vòng quay linh cảm được tạo lập. Tạo lập nhờ bản năng của nhà văn. Và lúc này tôi có thể trả lời; bản năng của một nhà văn chính là yếu tố quan trọng nhất giúp hình thành tác phẩm, ít ra là đối với tôi, bây giờ. Những ai đã từng gặp tôi, tinh nhạy để thấu hiểu bên trong cái vẻ ngoài hình như hiện đại kia là gì, họ đều biết tôi đang lặn ngụp trong vực thẳm rẫy nóng của chính mình và phát ra tiếng kêu khát khao hạnh phúc.

do-hoangdieu-02

Trần Vũ: Bản năng nhà văn và “bản năng công dân” khác nhau hoặc trùng lặp với nhau? Khi cầm bút viết, Đỗ Hoàng Diệu là một thiếu nữ thác loạn tình dục ưa nổi loạn đập phá, buông bút xuống cô trở lại thành thiếu nữ nhu mì, thôi phóng đãng, sợ hãi và phục tòng mọi quy ước xã hội?

Đỗ Hoàng Diệu: Nếu tôi nói rằng khi cầm bút viết tôi là một người khác, có nghĩa văn chương của tôi không thật. Nhưng cũng không có nghĩa những nhân vật trong 4 truyện ngắn của tôi mà Hợp Lưu đã công bố lại chính là tôi! Danh họa Picasso vẽ bức Guernica, không có nghĩa ông ta thích chiến tranh. Ông ta chỉ đem đến một góc nhìn về chiến tranh. Tôi đang sáng tác truyện ngắn, tôi không viết hồi ký, tự truyện. Cách nhìn của tôi, cách tôi bày tỏ yêu ghét với các vấn đề tôi nêu ra thể hiện bản năng tôi. Cũng như khi tôi dùng từ, mạch văn tôi viết, nhịp văn tôi ngắt, độc giả biết tôi đang nghĩ gì. Vả lại, 4 nhân vật nữ trong 4 truyện ngắn đã đăng trên Hợp Lưu, tôi cho rằng họ là những cô gái tốt. Thậm chí, giữa xã hội Việt Nam bây giờ, tìm được những người như họ quả là hiếm! Họ có một sức sống mãnh liệt, những tình yêu thực sự cho dù thân thể họ chịu bầm giập. Họ không thác loạn tình dục, họ không nổi loạn đập phá, họ chỉ sống thật với bản năng, nhưng họ đã phải trả giá vì việc sống thật này. Ðó là sự oái oăm của cuộc đời mà người ta vẫn gọi tên số phận.

Giả dụ ai gặp tôi vào một buổi sáng nào đó, khi tôi trang điểm nhẹ nhàng, môi hồng mắt nâu, luôn miệng cười với mọi người xung quanh, nói năng bằng cái giọng mê hồn, người đó sẽ nghĩ tôi là thiếu nữ nhu mì, sợ hãi phục tùng mọi quy ước xã hội? Còn khi tôi ôm hôn người yêu mê đắm bên hồ Gươm một đêm trăng sáng, người qua kẻ lại trố mắt nhìn, nghĩ tôi đang thác loạn tình dục? Rồi khi tôi viết đen thành trắng trong một bài báo chỉ cốt để nhận phong bì nuôi mình sống qua ngày, cũng chính người đó sẽ cho rằng tôi không làm tròn trách nhiệm công dân với tổ quốc? Chỉ là tôi, duy nhất tôi, dằn vặt tôi, giày xéo tôi, phân thân chính mình!

 

Trần Vũ: Xã hội Việt Nam có phải là một xã hội mặc đồng phục? Nhận xét của cô về cách sống của thế hệ trẻ hôm nay mà cô là một thành viên?

Đỗ Hoàng Diệu: Nếu đất nước may và tặng cho tôi một bộ đồng phục thật đẹp, đẹp nhất trong các bộ áo quần mà tôi có, chắc chắn tôi sẽ suốt ngày mặc nó. Mặc khi đi làm thì nghiêm trang, lịch sự; mặc khi dạo phố thì vui tươi, mát mẻ (và có chỗ cất tiền kín mà dân móc túi khó nhòm ngó); mặc khi hội hè thì quyến rũ, lộng lẫy… Dại gì tôi không mặc cơ chứ. Khi ngủ, tôi sẽ giặt bộ đồng phục, sáng mai lại là lượt cẩn thận và khoác lên người, lúc nào cũng mang cảm giác hân hoan có quần áo mới. Tôi sẽ chăm chút bộ đồng phục như một tài sản quý giá, và ai làm hỏng nó, chắc tôi không để yên. Mà thôi, đất nước còn nghèo, tôi không cần đất nước tặng tôi bộ quần áo đắt tiền, vải ngoại. Chỉ cần vải phin hoa thôi, nhưng hãy cắt may thật khéo, mỗi đường chỉ là sự trân trọng, sự chăm chút người mặc thực lòng, ông thợ may đừng vì hám lợi ăn bớt một vài đoạn chỉ hay vì mang mối thù từ đời ông cố ông sơ mà làm ẩu để áo tôi đứt cúc giữa đường!

Bây giờ đất nước cứ bắt tôi phải mặc đồng phục, trong khi bộ đồng phục mới xỏ tay đã rách. Ngày mai bắt tôi mặc, tôi hoặc mặc áo rách ra đường, hoặc ru rú một xó ngồi nhà, hoặc nữa thì len lén bận áo quần của riêng mình nơm nớp lo sợ dị dạng. Lơ ngơ ra đường, ngứa tay vung vẩy, thì đồng phục… lại rách toạc rồi người ta lại khiển trách tôi vì tội thiếu phẩm hạnh, không biết giữ gìn thuần phong mỹ tục. Thỉnh thoảng tôi lại thấy có ông mặt mũi phương phi, béo núc, đỏ au, sáng nào cũng mặc đồng phục đến công sở, nhưng chỉ là để điểm danh thôi. Tôi và bạn bè tôi thường cất bộ đồng phục trong tủ, nhưng phải để ở chỗ dễ nhìn thấy. Ðể chỉ cần loa phóng thanh của ủy ban nhân dân phường “A lô, a lô, bà con chú ý!” là mang ra mặc ngay với cảm giác khoác áo tơi, vừa nóng lại vừa xấu. Nhưng chớ có dại dột mà chê bai nhé, mồm miệng phải liến thoắng: đẹp quá, đẹp quá, mát quá, mát quá trong khi tay tìm điện thoại gọi xin xe cấp cứu. Biết đến khi nào xe cấp cứu đến nơi! Nhưng mà cứ gọi, không đến kịp để cứu người chết nóng thì cứu người chết rét. Nơi đâu, mỗi giờ mà chẳng cần xe cấp cứu!

do-hoangdieu-04

Thế hệ chúng tôi, con nhà giàu thì tìm cách ra nước ngoài du học và tìm cách ở lại. Số về nước thì không nửa đêm rửng mỡ rủ nhau vèo BMW ra vòng xoay Hàng Xanh chờn mặt với mấy anh cảnh sát giao thông, cũng đâm đầu dính chặt trong các văn phòng nước ngoài để kiếm ít tờ xanh. Chàng àng, dình dang trong nước năm năm dưới mái trường Ðại học xã hội chủ nghĩa như tôi, như đa số bạn bè tôi, ra trường trái ngành, trái nghề cũng kiếm cơm qua ngày. Ðược cái, đứa nào đứa nấy phản xạ cực nhanh và hầu hết mắc bệnh biến thái. Mới mặc đồng phục giơ cao cánh tay đăng ký xung phong phút trước phút sau đã vẽ bậy trong nhà vệ sinh đóng kín, đảm bảo không lỗ rò!

Nhưng mà chung quy chúng tôi là những con ốc, ốc chưa mang nổi mình ốc tính gì đèo bòng ai. Làm sao để có tiền nuôi sống mình mà không phải bán mình sang Ðài Loan, Trung Quốc, làm sao đến tuổi thì lấy chồng lấy vợ, gia đình nếp sống mới trong thôn văn minh, xã văn minh, thế là OK.

 

Trần Vũ: Chỗ đứng của nhà văn trong xã hội Việt Nam, theo cô?

Đỗ Hoàng Diệu: Tôi thường gặp họ nhiều nhất trong quán nhậu! Sang thì quán ba ba, thịt rắn, thịt rừng. Kém kém một chút thì bia hơi vỉa hè. Bí beng chút nữa, vài chén rượu đế hột mít có cặn trước mâm thịt cầy. Họ hết đứng rồi ngồi, hết nói nhỏ rồi nói to, hết đ. cha thì đ. mẹ, hết cười ran hảo hớn đến bưng mặt như trẻ con… Khi say, họ thực sự dấn thân, với những lời “tả oán” oai hùng! Như thế, nhà văn Việt Nam đang đứng ở đâu? Họ còn sống hay đã chết? Có còn mảnh đất nào không, có còn bầu trời nào không? Họ vẫn đang sống giữa phố phường và… làm thơ. Tôi chưa phải là một nhà văn, tôi đang tìm chỗ đứng của mình.

 

Trần Vũ: Được biết cô theo dõi và đọc nhiều tác phẩm ngoài nước trên các trang mạng, và cũng có lần cô nhận xét bên ngoài viết khác bên trong. Cô cảm nhận Văn học di dân Việt Nam ra sao? Sự khác biệt với trong nước chính yếu nằm ở đâu? Các tác giả nào khiến cô lưu ý?

Đỗ Hoàng Diệu: Tất nhiên, bên ngoài phải viết khác bên trong. Ðề tài thì vẫn là chiến tranh và thân phận con người. Nhưng cuộc chiến đối với người bên ngoài là một cuộc chiến khác, với người bên trong là một cuộc chiến khác. Ðọc sáng tác trong ngoài tôi có cảm tưởng đã có hai cuộc chiến xảy ra trên cùng một đất nước, trong cùng một thời điểm. Thân phận con người sau chiến tranh nhìn từ bên ngoài cũng khác thân phận con người nhìn từ bên trong. Chỉ có chung những nỗi đau và sự mất mát trong tâm linh. Tôi thích đọc các nhà văn bên ngoài bởi cảm tưởng bao giờ họ cũng nói tiếng nói thật tình. Họ không phải che đậy vì sợ hãi, không phải nghĩ đến chuyện viết ra rồi, báo nào, nhà xuất bản nào sẽ in. Tôi nghĩ họ viết trong niềm say mê, họ viết cho mình và cho bạn bè mình. Văn của họ đầy day dứt, trăn trở, tiếc nuối và khao khát.

Đỗ Hoàng Diệu và phu quân tại Ohio 2015
Đỗ Hoàng Diệu và phu quân tại Ohio 2015

Ðiều làm tôi ngạc nhiên là càng xa quê hương, họ càng trân trọng tiếng Việt. Ngôn từ phần đông trong số họ lịch lãm, trau chuốt, mượt mà đến khó tin. Văn của Mai Ninh là một ví dụ. Không những trau chuốt, mượt mà, chị còn sáng tạo ra nhiều từ mới lạ, sâu sắc. Tôi cũng yêu thích chất nữ tính, nhẹ nhàng trong sáng tác của Miêng hay Phạm Thị Ngọc. Sự uyên bác pha lẫn cảm giác rờn rợn trong truyện ngắn Võ Ðình. Sự hùng tráng khoẻ mạnh nhưng cũng đầy lãng mạn trong tiểu thuyết lịch sử của Nam Dao. Chất đam mê, phóng túng trong sáng tác Thơ Thơ, Nguyễn Thị Thanh Bình. Sự lạnh lùng, tàn khốc đến bật máu khi đọc Trần Vũ… Nói chung, càng đọc tôi càng ngạc nhiên về họ.

Cách đây mấy năm, nghe nhà phê bình Thuỵ Khuê giới thiệu bộ trường thiên Mùa Biển Ðộng của nhà văn Nguyễn Mộng Giác trên RFI, tôi đã nhờ bạn bè mang về cho tôi bộ tiểu thuyết này, song cả 3 lần đều thất bại. Thấy tôi thèm đọc quá, bạn tôi đã phải đánh máy và gửi qua e-mail cho tôi mấy chục trang. Ðọc, và càng thêm thèm được đọc tiếp. Ðang hy vọng lần thứ 4 sẽ trót lọt. Có lẽ tôi sẽ lên chùa tụng kinh mấy ngày nhờ Bồ Tát hoá phép, để mấy ông mấy bà Hải Quan tự nhiên mờ mắt ngày bạn tôi về.

 

Trần Vũ: Cám ơn Đỗ Hoàng Diệu.

TV

thực hiện qua điện thư tháng 8/2004