KBC 4100
Tưởng nhớ một năm tiễn biệt người cha thân yêu từng tận hiến cả cuộc đời cho binh nghiệp.
Tôi lớn lên từ quân trường có tên LIÊN TRƯỜNG VÕ KHOA THỦ ÐỨC trên đồi Tăng Nhơn Phú, chợ Nhỏ, Thủ Ðức và tên gọi sau cùng là trường BỘ BINH THỦ ÐỨC.
Ba tôi là huấn luyện viên tại đây từ sau khi ông đã thụ huấn xong Khóa 2/1953 (!) thuộc quân trường này. Năm 1962, ông đi du học chuyên ngành Quân Cụ ở Maryland Hoa Kỳ sáu tháng, khi trở về ông chỉ muốn được ở lại quân trường tiếp tục huấn luyện sinh viên, mặc dù có vài vị khóa đàn em thăng tiến chức trọng quyền cao tá tướng khi có dịp gặp lại ông vẫn gọi ông là thầy và muốn tiến cử ông về với họ để tiến thân nhưng ông đều từ chối, với ông một chầu nhậu đã đủ tình huynh đệ rồi. Ðến năm 1972, ông thuyên chuyển về Lục Quân Công Xưởng ở Gò Vấp rồi nghỉ hưu năm 1975 ở cấp bậc thiếu tá vài tháng trước ngày miền Nam Việt Nam rơi vào tay CS. Ông bị đày tới Hoàng Liên Sơn ngoài Bắc hơn năm năm và tôi đã một lần ra Bắc thăm nuôi.
Hãy cùng tôi trở về khung trời quân trường vào giữa thập niên 50-60. Lúc đó tôi đang ở độ tuổi bậc tiểu học, thích tìm tòi, sục sạo nhất là mỗi khi đến mùa bãi trường. Nếu má tôi không đưa mấy anh chị em tôi về gởi bên quê nội ở Mỹ Tho ba tháng hè thì đôi bàn chân bé nhỏ của tôi thời đó tha hồ tung tăng khắp nơi trong quân trường. Khó mà giữ tôi ngồi yên một chỗ được lâu, cứ xổng ra là “rong chơi suốt ngày quên lãng”, mặc dù ba tôi hăm he dữ lắm. Có lần tôi đang mon men tới gần phòng làm việc của ba tôi ở Khối Quân Huấn mà không biết trời xui đất rủi lủi vào vừa đúng lúc ông đi dạy từ ngoài bãi tập về bắt gặp, thế là ông hốt tôi lên chiếc Lambretta hai bánh của ông và chở về nhà đét cho vài roi “ui da, con không dám nữa”. Vậy mà cũng chẳng chừa khi thì lang thang một mình, lúc thì cùng mấy đứa bạn nhỏ đồng trang lứa.
Ngày xưa làm gì có đồ điện tử để chơi game như bọn trẻ bây giờ mà hòng trói được chân tôi lại trong nhà. Tuy vậy, mỗi khi ông đi đâu cũng đều hỏi tôi có muốn đi theo không? Dĩ nhiên là con bé chạy nhảy lăng xăng theo rồi.
Vừa vào cổng chánh của quân trường là con đường tráng bằng nhựa (dầu hắc) thẳng ra tới cổng sau rộng hơn một chiếc xe chạy trên đường thôi. Ngay gần sát bên phải của cổng chánh một “lô cốt” cao có lính ngồi canh gác, kế đó là miếu Tiên Sư để cúng tế vào những ngày lễ lạt. Ði tới vài trăm mét, có hai dãy nhà cặp theo con đường chánh xây bằng gạch mái ngói khang trang đó là cư xá sĩ quan, mỗi dãy nhà có khoảng hai chục căn (không nhớ rõ lắm) sát vách với nhau theo kiểu nhà của Pháp. Nối giữa hai dãy nhà là một bãi sân xi măng rất rộng, buổi chiều người lớn hay đưa con cái ra đó cho chơi đùa, còn họ thì tán gẫu cùng nhau hay chỉ nhau thêu thùa nấu nướng.
Căn nhà đầu của dãy nhà đầu tiên là nơi gia đình tôi trú ngụ, ba tôi được cấp cho gia đình ở trong suốt thời gian ông phục vụ tại đây. Vì là căn bìa nên bên hông nhà có hành lang rất rộng, bề ngang bằng hai phần ba căn nhà ở, cùng mái cao với dãy nhà cũng được lót gạch bông và lan can dài từ trước ra sau, thật là nơi lý tưởng cho bọn trẻ chúng tôi bày các trò chơi, còn buổi sáng sớm thì ba tôi ra đó với cái radio để tập thể dục theo chương trình của đài phát thanh. Sau lưng dãy nhà chúng tôi ở là bệnh xá của quân trường. Dãy nhà thứ hai có nhà của Trung tá Vĩnh Lộc, cây trứng cá thật cao trồng trước nhà ông trái chín rụng đầy sân là sức hút với đám con nít, những lúc mọi người nghỉ trưa vắng vẻ vài đứa nhỏ hay đến chọc hái trái chín để ăn thơm ngọt làm sao… Có dãy nhà bên kia đường đối diện dãy nhà thứ hai có nhà Ðại tá Trí.
Thời đó, quân trường chưa khai phá hết, nhà cửa còn thưa thớt. Ðối diện trước nhà ba tôi còn rừng cây sầm uất. Thỉnh thoảng, sau khi ăn cơm chiều xong trời còn sáng mát, ba tôi cầm cây súng săn đi trước còn tôi xách chiếc lồng chạy lũn đũn theo sau. Ba tôi suỵt một tiếng bảo tôi đi nhè nhẹ thế là tôi phải rón rén thật khó khăn. Má tôi mà làm chim rừng rô-ti thì khỏi chê. Sau này, dân số, nhà cửa, phòng ốc từ từ bành trướng, cùng với tôi lớn dần theo thời gian thì những cuộc đi săn ngắn cũng giảm dần rồi dứt hẳn lúc nào chẳng hay và có ngôi nhà thờ được xây lên phía bên đó.
Ði xuống chút nữa, tiếp theo dãy nhà thứ hai bên phải con đường chánh là khu nhà của cố vấn Mỹ, họ thường ra phơi nắng ngoài sân, mấy đứa con nít tụi tôi hay ghé lại ngoài rào bập bẹ vài tiếng chào “Hello” để được phát vài thỏi kẹo chocolate. Kế đó là dinh ông tướng chỉ huy trưởng quân trường. Có một lần tôi mon men vào được chỗ bà giúp việc đang ủi đồ, tôi cứ nhìn dáo dác rồi tấm tắc nói “Nhà rộng lớn thiệt, có lầu nữa sang quá hả dì? Con cũng thích ở nhà lầu lắm đó.” Bà giúp việc phì cười “Con gái con đứa gì mà long nhong hoài không sợ bị đòn sao vậy?” “Dạ sợ chớ” rồi chạy tuốt.

Qua khỏi dinh ông tướng cho tới cổng sau vòng đai của quân trường là khu vực các sinh viên sĩ quan đang thụ huấn, tôi có bén mảng đến khu vực này chỉ một lần. Từ chỗ này là ngã tư đi về hướng đối diện dinh ông tướng là trường Truyền Tin bên trái, Khối Quân Huấn và trường Thiết Giáp (mở thêm sau này) bên phải. Xuống sâu hơn là rạp hát nằm ngang như kết thành chữ U với khối bên phải và trái vậy. Hầu như cuối tuần mọi người đều kéo nhau đến đó vì chỉ có nơi đó để giải trí nếu không muốn đi ra Sài-Gòn mà phương tiện di chuyển còn thiếu kém. Buổi trưa, có xe chạy vào các khu nhà phát loa rồi rải giấy quảng cáo cho phim mới đổi, đám con nít chạy theo cố xin càng được nhiều tờ chương trình càng thích để đưa lại cho người lớn, có đứa để dành rất nhiều chương trình phim rồi đem khoe với nhau. Phim tình cảm Ấn Ðộ thời đó thu hút đàn bà con gái nhất, thậm chí các cô gái mặc hóa trang Ấn Ðộ để chụp hình trưng bày ngoài tủ kiếng của các tiệm chụp hình.
Xa hơn đó là khu gia binh dành cho gia đình binh sĩ, có bán đồ ăn vào buổi chiều tới tối rất nhộn nhịp. Có khi, ba tôi chở cả nhà đến đó ăn hoặc mua về. Có món bún bò Huế là tôi không ăn được, nấu gì mà cay quá trời con nít làm sao ăn nổi??? Vậy mà người lớn cứ khen tấm tắc làm tôi phải ấm ức nhìn.
Nhớ có lần tôi ra Ðà Nẵng thăm ông nhà tôi đang chuyển công vụ ngoài đó. Ông đưa tôi cùng hai người phụ tá đến một quán ăn bún bò Huế ở ngã năm (?) được ông quảng cáo ngon nhất vùng. Trời lạnh, mưa phùn bay bay, cảm xúc bồi hồi tràn lên trong lòng của kẻ thích ngao du tìm tòi mong được chứng kiến những điều mới lạ của quê hương. Lúc này có được một tô bún nóng thì còn gì hấp dẫn hơn. Vào quán giờ ăn trưa nên rất đông khách mọi người đang xì xụp với tô bún, mùi nước lèo thơm lừng trong quán làm dạ dày tôi cồn cào hối thúc. Mấy tô bún được mang ra óng ánh vàng ngậy như màu ráng chiều cùng vài dĩa rau sống nhìn mà bắt thèm, mấy người phụ tá cho thêm ớt sa tế vào tô. Tôi không ăn cay nên múc một muỗng nước súp nếm trước.
Trời đất quỷ thần ơi! Chưa kịp nuốt nước súp xuống cổ tôi đã ho sặc sụa, nước mắt nước mũi ràn rụa hai tai lùng bùng, còn lưỡi tôi như bị bỏng. Mọi người ngạc nhiên ngừng ăn nhìn tôi, thật vừa như khóc vừa mắc cỡ, tôi không ngờ sao mà cay quá trời (?) vậy mà ai nấy vẫn ăn bình thường thậm chí còn cho thêm tương ớt nữa chứ. Thế là tôi đành để bụng đói trở về căn cứ ăn mì gói, mà lòng còn tiếc tô bún bò Huế hùi hụi. Sau này, tôi học cách nấu bún bò Huế để tự nêm nếm cho vừa mình ăn bằng không thì đành ngồi “dòm miệng” sao?
Sau lưng của Khối Quân Huấn và trường Thiết Giáp là khu nhà của hạ sĩ quan, tôi có mấy đứa bạn học chung lớp nhà ở trong đó thì đố khỏi tôi không ghé qua (!). Thật ra phần đông quân nhân phục vụ trong quân trường thời điểm đó biết ba tôi cho nên họ cũng vui vẻ mỗi khi bất chợt gặp tôi nghêu ngao đâu đó tạo cho tôi cảm giác thoải mái gần gũi thật là tự nhiên chẳng khác nào toàn bộ quân trường như là khuôn viên vườn nhà tôi và mọi người là họ hàng nhà tôi vậy.
Lần đó, tôi cùng một đứa bạn nữa lang thang đến gần nhà bếp của quân trường, gặp lúc giờ ăn trưa của các sinh viên đang thụ huấn. Là lần đầu tiên tôi nhìn thấy cơm được nấu trong cái chảo đụn thật to, còn to hơn cái thau mà má tôi dùng hứng nước tắm cho mấy anh chị em tôi. Có mấy chú lính đang phân phát đồ ăn, họ xúc cơm bằng cái xẻng nhà binh giống ở nhà ba tôi dùng để xúc đất. Các sinh viên kẻ đứng người ngồi lao xao ăn uống đùa giỡn, có chú lấy cái nón sắt đựng cơm hoặc nước nữa chứ, cơm gạo lức đỏ còn bốc khói nóng. Hai đứa tôi ngạc nhiên trố mắt ra nhìn các vật dụng đang được sử dụng. Một chú thấy hai đứa tôi đứng lóng nhóng bèn hỏi:
– Ê nhỏ! Có muốn ăn cơm cháy hông? Rồi quay qua cười với mấy chú khác.
– Dạ! Cho con một miếng đi chú. Tôi trả lời
Người lính ngừng cười quay lại nhìn tụi tôi có lẽ chỉ định giỡn cho vui không dè con nhỏ muốn ăn cơm cháy thiệt. Cơm múc ra đã hết, chỉ còn vành cơm cháy dưới đáy chảo được xủi tróc lên nghe giòn rụm. Chú lính bẻ một miếng cơm cháy bự hơn bàn tay người lớn đưa cho hai đứa tôi rồi nói:
– Nè! Coi chừng gãy răng đó nghe.
Dạ! Hai đứa tôi chia miếng cơm cháy rồi cười hớn hở kéo nhau đi, vừa líu lo vừa nhai cơm cháy còn ấm nóng thơm phức hòa lẫn tiếng cười của mấy chú lính đang vang phía sau lưng.
Cơm cháy này dày hơn cơm cháy ở nhà tôi nấu, vì vậy tôi phải nhai lâu hơn do đó vị ngọt của cơm ứa ra trong miệng vừa thơm vừa giòn. Thật là thú vị lần đầu tiên được ăn cơm cháy quân trường, mà đâu phải ai ở trong quân trường đều có thưởng thức qua (!). Cái hương vị của cơm cháy quân trường khác hẳn với cơm cháy thường ngày ở nhà tôi, mặc dù bị nhai trúng sạn (dễ bị gãy răng thiệt chứ) mà vẫn thấy ngon lạ.
Mỗi khi nhớ đến món cơm cháy của quân trường ngày xưa, tôi có nấu lại cơm gạo lức rồi để cho có cháy nhưng ăn vẫn không tìm lại được cái cảm giác thú vị như miếng cơm cháy của quân trường Bộ Binh Thủ Ðức ngày nào. Có lẽ do ở tuổi thơ vô tư, hồn nhiên và đang đói (!). Ôi! Tuổi thơ xinh đẹp và dễ thương chỉ còn là dấu ấn trong tiềm thức…

Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẫn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Ðức nói riêng, đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Ðể rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường, chống giặc thù ngoài chiến trận trên khắp nẻo đường đất nước để bảo vệ Non Sông Tổ Quốc Việt Nam có khác nào vị ngọt có lẫn cát sạn của cơm cháy quân trường.
Sau khi lập gia đình, tuy tôi theo chồng đi khắp bốn vùng chiến thuật nhưng con tôi đều được chào đời tại Tăng Nhơn Phú, Chợ Nhỏ, trường Bộ Binh Thủ Ðức. Nhớ năm Mậu Thân, tôi đang có mang cháu đầu lòng về ở với gia đình chờ ngày sinh nở. Khi VC tấn công pháo kích xung quanh vùng đó, ba tôi vội đưa cả nhà đến Khối Quân Huấn để tránh đạn vì ở đó có đắp những hầm chất bằng bao cát. Ông cứ nơm nớp lo cho tôi. Vài tháng sau đó chị Hưởng con của bác Trung tá Hưng bạn cùng làm trong quân trường với ba tôi ghé qua thăm. Chị đang có bầu sắp đến ngày sanh, vừa nhìn thấy tôi chị bật khóc nức nở: “Chồng chị bị tử trận trong đợt tấn công Tết Mậu Thân rồi”, tội cho đứa bé còn trong bụng mẹ chưa kịp biết mặt cha. Biết làm sao mà an ủi chị đây khi có chồng là trai thời loạn!!!
Cơn gió chuyển mùa đông ùa ập như cố giũ cho sạch những chiếc lá nâu vàng bướng bỉnh còn sót lại đang cố bám víu một cách tiếc nuối trên cành khô tuyệt vọng trước sức cuốn mạnh của gió không thể cưỡng lại được, những chiếc lá đành buông xuôi lơ lửng theo chiều gió về một nơi xa xăm chẳng phải là cội nguồn của mình.
Lyens
TX 2009 – Soạn lại 2017