Menu Close

Ngày ta bỏ núi (kỳ 5)

Tháng 4-75 cha tôi lo lắng vô cùng cho chú ruột tôi, Trung sĩ Lưu Linh Hải thuộc đại đội chống chiến xa của Tiểu khu Long Khánh. Trưa nào cha cũng đến các gia đình có thân nhân cùng đơn vị với chú, nhưng không có tin tức. Chúng tôi biết đang đánh nhau dữ dội. Tin chiến thắng bất ngờ của Biệt Động Quân bắn cháy chiến xa T-54 dội về Sàigòn như một phép màu! Dân chúng khu Tân Định giành nhau những trang báo Chính Luận, Sóng Thần xem hình xác xe tăng Việt cộng. Tất cả đều biết Xuân Lộc là phòng tuyến chống đỡ sau cùng, mất Long Khánh là Việt cộng sẽ ập vào thủ đô. Buổi học cuối trong trường Lasan, các sư huynh bảo chúng tôi cầu nguyện cho những người lính ngoài tiền tuyến. Gia đình tôi theo đạo Phật nhưng tôi vẫn cầu Mẹ Maria che chở cho những người lính bên mình.

nguồn vnafmamn.com
nguồn vnafmamn.com

Suốt 10 ngày Cộng quân không chiếm được Xuân Lộc. Nhưng chiều 21 Tổng thống Thiệu từ chức, tướng Nguyễn Văn Toàn ra lệnh bỏ Xuân Lộc lui về Trảng Bom, tiếp tục chuỗi bi thảm…

Một tháng sau tôi hỏi chú Hải sống sót trở về: “Chú có bắn cháy chiến xa nào không?” Chú trả lời: “Toán của chú không đụng T-54 mà đụng PT-76. Chú bắn hai quả M72, quả đầu trúng mũi trượt đi, quả thứ nhì làm đứt xích. Ông Thượng sĩ ôm M72 bên phải chú, bò đến gần để dứt điểm thì bị bắn chết. Họ cho xe máy cày vào kéo chiếc PT-76…”

Hồi ký của Thiếu tá Vương Mộng Long cho tôi cảm giác sống lại tháng 4. Vẫn là trận đánh khốc liệt sau cùng này mà những dòng chữ không khoa trương vẫn toát ngời hào hùng. Thiếu tá Long kể chi tiết: Chống tăng phải hạ gục xa trưởng trên pháo tháp, tung lựu đạn khói che mắt rồi kết liễu bằng cách bắn vào ống pô… Súng phóng hỏa tiễn M72 tầm xa lý thuyết 100 thước, nhưng trên thực tế người lính phải bò đến sát vài mươi thước, đòi hỏi một can đảm phi thường. Những trang hồi ký làm tôi nhớ đã từng hỏi chú Hải: “Vì sao những tỉnh lỵ khác mất nhanh mà Xuân Lộc giữ được lâu?” Chú đáp không do dự: “Cung cách chỉ huy. Tiểu khu trưởng của chú, ngay hôm đầu nói: Tôi thấy các anh chạy, tôi bắn. Các anh thấy tôi chạy, các anh cứ việc bắn!”

Chính cung cách này mà người đọc tìm thấy lại qua Thiếu tá Vương Mộng Long, đã khiến binh sĩ liều chết giữ đất. Thiếu tá Long cũng phải rất thương mến binh sĩ, vì họ đã trao ngược lại ông, tình thương dành cho cấp chỉ huy.

 Trần Vũ

 

Sáng 2/4/75, vừa xuống tới chân dốc, tôi báo cho 2 tiểu đoàn đi sau chuẩn bị đánh lạc hướng địch. Mười năm phục vụ ở Vùng 2, tôi đã hướng dẫn nhiều quân nhân dưới quyền thành thạo nghệ thuật xóa dấu vết khi di chuyển trong rừng. Hôm nay liên đoàn bị một phen vất vả. Ðoàn quân đang đi hàng dọc thì được lệnh dừng lại, chuyển thành hàng ngang, đâm thẳng xuống suối. Tới suối lại được lệnh lội hàng dọc trong lòng suối. Lội được khoảng nửa cây số lại có lệnh chuyển hàng ngang leo lên đỉnh. Khi lên tới đỉnh, đoàn quân lại chuyển thành hàng dọc. Phải ma mãnh như thế mới đánh lạc được sự theo dõi của Thượng Cộng. Vì di chuyển vòng vo tránh vùng địch hiện diện nên chúng tôi dạt về hướng nam hơi xa. Buổi trưa, tôi thấy đồn Tân-Rai sừng sững bên phải trục tiến quân của mình. Trên ngọn cột, lá cờ vàng ba sọc đỏ còn bay, nhưng đồn Tân-Rai đã bị bỏ trống. Chúng tôi chỉ đứng xa mà ngó chứ không dám leo lên. Mìn bẫy ai mà lường cho được!

tabonui-02

Tôi chuyển hướng về đông bắc. Xế chiều chúng tôi đã ở trên một đỉnh đồi nằm về hướng tây phi trường Con-Hinh-Ða. Thành phố BLao nằm dưới kia, ngay trước mặt! Từ trong phố vẳng lại tiếng trống múa lân “thùng! thùng!” Trước cửa vài ngôi nhà lác đác cờ bay, cờ nửa xanh, nửa đỏ, sao vàng. BLao đã rơi vào tay giặc! Chúng tôi đành quay sang hướng bắc, tìm đường lên Ðức-Trọng, Liên-Khương. Không biết tình hình Ðà-Lạt ra sao? Thôi thì, nước còn, ta cứ tát! Hy vọng, có còn hơn không!

Trưa 3/4/75, cánh quân đầu của tôi tới sát liên tỉnh lộ 8B. Nơi này cách quận lỵ Di-Linh chừng 5 cây số. Bên kia lộ là rừng trà. Trà bạt ngàn. Hướng nam con lộ là rừng tre. Chúng tôi núp trong rừng tre. Ngoài đường cơ giới địch chạy ầm ầm. Chờ tới gần tối, tôi đem theo Thiếu úy Học và một toán cận vệ xuống thám sát con đường. Khi chúng tôi đang kẹt giữa đường thì một chiếc xe tải đi tới. Toán cận vệ BÐQ bắn vào đầu xe. Chiếc xe bể máy, xẹp lốp ngừng ngay giữa đường. Hai tên VC ngồi ghế trước chết ngay tại chỗ. Chúng tôi chưa kịp kiểm soát trên xe chứa gì thì nghe tiếng đàn bà và trẻ con khóc ré lên trong xe. Xe chở toàn đàn bà và con nít! Tôi không biết vì sao trong chiếc xe Zin của VC lại đầy con nít, đàn bà? Tôi gọi anh em rút êm về hướng cũ. Chúng tôi nhanh chân lui lại hướng nam chừng một cây số, ngủ trong rừng trà. Từ radio, đài BBC loan tin thành phố Ðà-Lạt mất. Bây giờ chúng tôi chỉ còn cách bỏ núi, tìm đường ra biển.

Ngày 4/4/75, chúng tôi di chuyển thật chậm trong rừng thông và rừng cỏ hôi. Vùng này nằm giữa Di-Linh và Bảo-Lộc. Hướng tiến bây giờ là 1600 ly giác. Tôi hy vọng tìm được đường tới Liên-Ðầm. Rồi từ Liên-Ðầm lủi trong rừng tre chuồn về Gia-Bắc, xuống Thiện-Giáo. Trưa đó toán đi đầu của tôi mới ló đầu ra một trảng trống thì nghe tiếng súng trường Nga-sô bắn “tắc! bụp!”… Có người đi săn gần đây! Vừa quẹo qua một cái cua đường mòn, Binh nhất Yan đi đầu chạm trán một cán binh Việt-Cộng ngồi câu cá trên một cái cầu ván bắc ngang con rạch nhỏ. Tên Việt-Cộng không ngờ trong rừng còn có quân lính Việt-Nam Cộng-Hoà! Y há hốc mồm nhìn sững cái phù hiệu đầu cọp nhe nanh trên mũ sắt của Binh nhất Yan. “Ðoàng!” thằng VC rớt xuống rạch. Nước trong rạch không sâu lắm, cỡ đầu người. Chúng tôi núp trong lùm tre nhìn về hướng đồn điền trà trước mặt. Trời! Việt-Cộng đâu mà nhiều thế! Lều bạt, xe cộ, phòng không, đại bác, xe tank, xe xích kéo pháo và tải đạn, đậu sát rạt nhau theo các đường phân lô trà. Bóng người qua lại lố nhố. Ðơn vị CSBV này cũng cỡ một E-pháo (trung đoàn). Như vậy gần đây cũng phải có ít nhất là một E-bộ binh yểm trợ cho cái E-pháo nặng trước mắt tôi! Trên cái đồn điền trà bát ngát đó, chỗ nào cũng có bộ đội. Chúng nói chuyện ồn ào huyên náo tự nhiên như đang ở giữa Hà-Nội. Chẳng đứa nào để ý tới tiếng súng của Binh nhất Yan. Chắc chúng tưởng đó là tiếng súng bắn chim trời, gà rừng của đồng bọn? Trong tình cảnh đó, tôi thấy chỉ có cách áp dụng chước thứ 36 trong tam thập lục kế là tốt nhất. Tôi ra dấu cho mọi người đánh bài tẩu mã. Anh Thiếu tá Ðàng đi đoạn hậu, còn ở tít đằng sau xa, chẳng hiểu ất giáp gì. Thấy tôi hối hả ra lệnh chém vè về nam càng nhanh càng tốt, anh cũng cho đàn em vắt giò lên cổ chạy theo tụi tôi. Sau đó, nương theo rừng thông, chúng tôi từ từ di chuyển ngược về nam. Tôi dự trù sẽ lấy quốc lộ 20 làm chuẩn. Nếu thuận tiện chúng tôi đổ dốc xuống Thiện-Giáo. Nếu có trở ngại, chúng tôi sẽ cặp quốc lộ để về Gia-Kiệm. Ðêm đó chúng tôi nghỉ chân trên một khu đồi thông. Hướng nam của chúng tôi là những rặng đồi cuối cùng của cao nguyên Bảo-Lộc. Tôi biết chắc chắn rằng bên trái những rặng đồi xanh đó là Ðèo Chuối. Rừng chuối, rừng tre vùng này thì, eo ơi! vắt nhiều không đâu bằng!

tabonui-05

Trưa 5/4/75, tôi đang suy tính làm cách nào an toàn đưa liên đoàn băng qua Quốc lộ 20 thì trong tần số 47.70 có người gọi Thái Sơn. Tần số 47.70 là tần số đặc biệt của tôi, chỉ có tôi và Trung tá Hoàng Kim Thanh LÐT/LÐ24/BÐQ biết. Tần số này chỉ dùng trong trường hợp nguy biến hay bị thất lạc. Một chiếc L19 đang bay ở hướng đông. Chiếc L19 trực thuộc Quân đoàn 3. Trên tàu là Trung tá BÐQ Nguyễn Khoa Lộc (Khóa 18 Võ-bị); anh đang đi tìm tôi và liên đoàn. Anh Lộc cho tôi biết rằng Trung tá Thanh đã về tới Sàigòn. Trước khi nhập viện chữa vết thương, Trung tá Thanh đã tới trình diện Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân khu 3 để báo cáo với ông tướng rằng Thiếu tá Vương Mộng Long đang hướng dẫn Liên đoàn 24 BÐQ trên đường tìm về với quân bạn. Tướng Toàn ra lệnh cho Trung tá Lộc đi tìm bốc chúng tôi về. Tôi loan báo tin này cho anh Ðàng và anh Tài. Cả liên đoàn như hồi sinh. Sau khi anh Lộc bay đi, tôi cho quân tấp vào bìa rừng nghỉ qua đêm chờ mai ra bãi bốc. Ðêm đó là lần đầu tôi, anh Tài và anh Ðàng đóng quân chung. Ðó cũng là lần đầu chúng tôi có thời giờ kiểm điểm lại quân số một cách kỹ càng sau gần nửa tháng vất vả, gian nan. Tôi cám ơn niên trưởng Trần Ðình Ðàng đã phụ giúp tôi một cách rất đắc lực trong vai trò đoạn hậu vô cùng khó khăn. Với những đức tính can đảm, kiên nhẫn, chịu đựng, và khiêm nhường, Thiếu tá Ðàng là tấm gương tốt cho những người khác nhìn vào, noi theo. Quân số Liên đoàn 24 Biệt Ðộng Quân còn duy trì toàn vẹn, phần lớn nhờ vào công lao của niên trưởng Trần Ðình Ðàng khóa 15 Võ-bị.

Ngày 6/4/75, Tiểu đoàn 82 BÐQ được Chinook của Quân đoàn 3 bốc ra phi trường Phan-Thiết. Ðổ xăng xong, trực thăng chở thẳng chúng tôi về Xuân-Lộc tăng phái cho tướng Lê Minh Ðảo. Hôm sau, 2 tiểu đoàn 81 BÐQ và 63 BÐQ cũng được bốc ra Phan-Thiết và đặt thuộc quyền chỉ huy của Tiểu Khu Bình Thuận.

Khoảng 5 giờ chiều ngày 6 tháng Tư 1975, tôi đặt chân xuống phi trường Long-Khánh. Một cuộc lui binh nghiệt ngã đã đưa tôi tới chốn này. Quanh đây, tôi chỉ thấy một dải bình nguyên ngút ngàn đồng cỏ. Tìm đâu những rặng Chư-Prong, Chư-Gô suốt mùa sương phủ, mây che? Tôi đã thực sự lìa rừng, xa núi. TỪ NAY VĨNH BIỆT PLEIME!

Tôi hiểu rằng chiến trận không dừng ở đây. Vì tôi biết một tướng hàng đầu Cộng sản đã tuyên bố: “Muốn giải phóng Miền Nam, trước hết phải đặt bàn chân phải lên Tây-Nguyên, sau đó đặt bàn chân trái lên Duyên-Hải.” (Võ Nguyên Giáp). Chúng tôi đã bình thản đợi chờ những trận đánh mới.

Tháng Tư 1975, những người lính của Tiểu đoàn 82 Biệt Ðộng Quân gốc Kinh, Thượng Rhadé, Jarai, Bana của căn cứ Biên Phòng Pleime đã chiến đấu một cách tuyệt vọng, nhưng với một phong cách thật tuyệt vời. Chúng tôi đã không bỏ nhau. Theo chân nhau, chúng tôi đã ngã xuống, từng ngày. Máu chúng tôi đã tưới đẫm từng ngọn đồi, từng đoạn đường, từng khu phố để ngăn bước giặc tràn vào Xuân Lộc, Ðồng Nai, Sài Gòn. […]

Ðầu tháng Tư năm 1975, Quân đoàn 2 không còn nữa. Tiểu đoàn 82 BÐQ được đưa thẳng về sân bay Long Khánh đặt thuộc quyền sử dụng của Bộ tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh. Tại đây, suốt 10 ngày đêm ròng rã, Tiểu đoàn 82 BÐQ đã tả xung hữu đột chặn đứng mọi mũi tiến công của lực lượng xe tank Bắc Việt nhắm vào sân bay Xuân Lộc và Tòa hành chánh Long Khánk vùng đông nam thành phố. Với tôi, trận Long Khánh là một trận đánh “để đời” cho những tay cầm quân chuyên nghiệp. Ngày xưa tôi rất mê Rommel, tôi đã tìm đọc nhiều sách viết về Con Cáo Sa Mạc này và tôi mơ tưởng có ngày được đánh những trận thần sầu như Rommel đã làm.

tabonui-03

Ngày đầu 6 tháng 4 đặt chân xuống phi trường Long Khánh, tôi thật khó mà tưởng tượng ra rằng tại nơi này mình lại có dịp tham dự vào một trận đánh long trời lở đất vài ngày sau đó. Trận Xuân Lộc là lần đầu trong đời lính, tôi được thỏa mãn ước vọng đọ sức so tài với một địch thủ nặng cân hơn về vũ khí, đồ sộ hơn về quân số. Ðịch đông gấp ba, bốn lần quân bạn, được T54 trang bị đại bác 100 ly dẫn đường. Pháo yểm của CSBV gồm đủ loại hạng nặng: đại bác 130 ly, 122 ly nòng dài, 105 ly, 75 ly sơn pháo, cối 120 ly, cối 82 ly, và phòng không 37 ly. Thậm chí trong ba ngày đầu địch dùng cả 37 ly phòng không bắn trực xạ vào trại 181 Pháo Binh/SÐ18 nơi tôi đặt bản doanh BCH Tiểu đoàn. Ấy vậy mà đoàn quân hung hăng của “Con Cháu Bác” không làm cách nào vượt nổi khúc xương khó nuốt là cái trại 181 PB bé tí teo để xông thẳng vào Tòa Hành Chánh tỉnh, nơi ông Ðại tá BÐQ Phạm Văn Phúc tỉnh trưởng đang trợn tròn con mắt theo dõi tên đàn em về từ Pleime chơi trò ú tim với xe tank CSBV.

Rạng đông 9/4/1975 chiến trận bắt đầu bùng nổ. Chiến trường mịt mù dưới đất, tóe lửa trên trời. Những cánh F5 thét gào, lên, xuống, thả hết đợt bom này tới đợt bom khác lên đầu địch. Ðáp lại địch cũng trả đòn bằng những chùm 37 ly phòng không nở hoa trên mây. Những chiếc Khủng Long AC-119 bao vùng cả ngày lẫn đêm, những họng đại bác 20 ly gầm rú từng hồi. Súng nổ như bắp rang khắp nơi trong thành phố, ngoài vòng đai. Ðủ loại đại bác thét gầm, đạn xé gió ào ào tới tấp tưới trên mục tiêu của cả hai phía. Những đám cháy không người chữa, lửa càng lúc càng cao, thần hỏa tự do tung hoành. Máy truyền tin ơi ới gọi nhau. Những thân hình ngã xuống, những tiếng hô xung phong nghe rợn tóc gáy. Những chiếc T54 hung hãn khạc đạn liên hồi, những cái lô cốt ngả nghiêng vì trúng đạn đại bác 100 ly của xe tank địch. Trong những ngày đầu tháng Tư Long Khánh, một góc địa cầu đã rung rinh vì bom đạn.

Khi chiếc thiết giáp Cộng sản PT76 vướng vào cuộn kẽm gai vòng nơi góc rào tây bắc của trại 181 Pháo Binh SÐ18 thì cũng là lần đầu đoàn quân xâm lăng khựng lại hoảng hồn bởi những tiếng hô, “Biệt Ðộng! Sát!”; “Biệt Ðộng! Sát!” Chiếc tank đầu tiên lãnh trọn một quả M72. Chiếc PT76 xấu số cháy bùng. Những anh bộ đội Cộng Sản tùng thiết rút lui trối chết về hướng rừng lau. Chúng tôi đã ra mặt đương đầu với đoàn chiến xa CSBV kể từ giờ đầu súng nổ. Nơi góc đông nam thị xã, những người xâm lăng đã biết chúng tôi là Biệt Ðộng Quân ngay lần hội ngộ đầu tiên. “Biệt Ðộng! Sát!”, “Biệt Ðộng! Sát!” tiếng hô vang dậy một góc trời! Biệt Ðộng Quân đang có mặt nơi đây!

Ngày qua ngày, pháo địch như mưa, T54 có bộ binh tùng thiết, từng đợt, từng đợt ào ạt xung phong vào vòng đai phòng thủ thị xã. Nhưng những tổ chống tank 3 người của TÐ82 BÐQ ẩn hiện như ma trơi, sau ô mối, sau gốc xoài, trong bụi chuối, cứ từ từ rang hết con cua T54 này đến con cua T54 khác. Tiểu đoàn tôi đánh vùi với chiến xa địch cả tuần lễ không biết mệt. Toán diệt tank này bị loại, toán khác lên thay. Có cả một giang sơn hướng đông nam thị xã cho chúng tôi mặc sức tung hoành. Chúng tôi đã làm cho địch tổn hại nặng nề. Chúng tôi đã đánh cho chúng nó “tà đầu” như ý của Thiếu tướng Lê Minh Ðảo, tư lệnh mặt trận.

Săn đánh xe tank là cả một nghệ thuật, nó còn là một cái thú nữa, cái thú vui chết người. Hơ hỏng một chút thôi là mất mạng như chơi. Trong số 12 BÐQ Pleime tử trận ở Long Khánh đã có 7 người chết trong khi săn đuổi xe tank. Mỗi chiến cụ, mỗi vũ khí đều có chỗ yếu của nó. Cái bộ phận phun khói là cái “gót chân Achilles” của xe tank CSBV. Tất cả những chiếc tank địch bị TÐ82 BÐQ tiêu diệt trong trận Xuân Lộc đều bị bắn từ phía sau đuôi, nơi phun khói. Ðánh tank cũng có quy luật. Việc đầu tiên là “tỉa” tên xạ thủ 12 ly 8, nó là tai mắt của chiếc tank, nó có một chân trái hoặc chân phải bị khóa vào dây xích trên ghế phòng không. Việc thứ nhì là “bung” một trái lựu đạn khói hoặc lân tinh làm màn chắn che mắt cái tank bạn của nó ở cách nó không xa, cây phòng không trên chiếc tank thứ 2 là tử thần gọi chết. Việc thứ 3 thật giản dị, cứ đứng xổng lưng bóp cò cây M72 nhắm ngay phần phun khói sau đít cái tank mục tiêu, đây là phần mỏng nhất, dễ bắn thủng nhất của chiến xa. Một tiếng “bùm!” rồi tiếp sau đó là xăng và đạn trong xe cháy nổ “lóc! tóc! ùm! ùm!” ngọn lửa dâng cao, khói dâng cao. Xong!

tabonui-04

Mỗi lần một chiếc PT76 hay T54 bị bắn cháy, cột khói chưa lên cao khỏi ngọn cây thì người Anh Cả của chiến trường đã có mặt trên vùng.

“Tiên Giao đây Hằng Minh gọi!”

“Hằng Minh, Tiên Giao nghe.”

“Come on! Gắng lên nghe em! Ðánh cho nó tà đầu hết cục cựa! Ok?”

“Vâng, tôi nghe 5, đánh cho nó tà đầu hết cục cựa!”

“Okay ! You’re a man! Don’t let ‘em run away ! Ok?”

“Vâng, không cho nó ôm đầu mà chạy! “

“Kill ‘em! Kill ‘em! Okay! “

“Vâng ! Ðây là cái tank thứ 3… đó nghe Hằng Minh! Nó vào cái nào, tôi hạ cái nấy nhé!”

”Okay! I like the way you fight! “

“Vâng, tôi nghe rõ 5! “

“You’re great! You’re excellent!”

Sau khi thị sát trận địa và khích lệ tinh thần tôi, người Anh Cả bay sang mặt trận hướng tây thị xã, trên đường bay, ông liên lục đối thoại với vị chỉ huy trưởng phòng thủ Xuân Lộc, Ðại tá Trung đoàn trưởng trung đoàn 43/SÐ18 BB Lê Xuân Hiếu (Khóa 10 Võ bị) cũng bằng ngôn ngữ nửa Việt nửa Mỹ.

Người Anh Cả của mặt trận này là Thiếu tướng Lê Minh Ðảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 BB. Ông lấy danh hiệu đàm thoại là Hằng Minh, tên người em ruột của ông, Lê Hằng Minh là người hùng TQLC Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Trâu Ðiên năm xưa đã tử trận trên chiến trường Thừa Thiên. Tiên Giao là tên đứa con gái út của tôi, danh xưng truyền tin tôi chọn cho mình trong trận đánh này.

Một ngày giữa tháng Tư năm 1975, ngoài vòng đai phòng thủ, một chiếc T54 chạy lạc loài. Cái ống khói của nó lãnh trọn một quả M72 của toán diệt tank của Ðại đội 1/TÐ82 BÐQ. Anh Binh nhì Phan Thọ trong toán hộ tống của tôi cùng với ông phóng viên nhà báo lao vụt về hướng súng nổ. Ít phút sau tôi nghe choang choác, tiếng phòng không 12 ly 8 nổ giòn ngoài xa. Trong máy PRC25 tiếng Thiếu úy Học, ÐÐT 1/82 BÐQ báo cáo, thằng Thọ bị thương nặng, xin tản thương. Thì ra anh Binh nhì Thọ gan dạ này thấy chiếc T54 đã nằm bất động, anh leo lên gỡ khẩu phòng không đem về cho thầy. Không ngờ còn một chiếc chiến xa T54 khác nằm ẩn trong bụi lau cách đó không xa. Thấy anh đứng nghênh ngang sau pháo tháp nó quạt cho anh một tràng 12.8 ly. Anh rơi xuống đất như con chim bị ná. Ruột anh đổ ra lòng thòng, máu tuôn như suối. Anh phóng viên và một người lính trong toán diệt tank khiêng Thọ về sân bay. Sĩ quan trợ y tiểu đoàn phải dùng cả một tấm băng lá to bằng 2 bàn tay xòe để che cho ruột của Thọ khỏi phòi ra. Mặt Thọ tái xanh, môi run run: “Thiếu tá đừng la em..! Em thấy cây súng dễ ăn quá, không ngờ tụi nó bắn lén em!” Tôi an ủi Thọ: “Ừ, thiếu tá không la em đâu, nằm im đó chờ xe, Hoàng Long sẽ đem em đi tản thương!” Hoàng Long là danh xưng của Ðại úy Ngũ Văn Hoàn, tiểu đoàn phó. Tôi một mặt lo xin pháo binh trong vòng đai trực xạ vào vị trí chiếc xe tank còn lại, một mặt điều động ÐÐ1/TÐ1/Trung đoàn 43 BB đánh bọc bên phải tiếp tay cho Thiếu úy Học ÐÐ1/82 có thì giờ dùng kẽm gai concertina quây quanh chiếc xe mới bị bắn cháy. Chỉ có concertina mới ngăn cản hữu hiệu được bước tiến của chiến xa địch. Con đường độc nhất để tiến quân bằng xe tank của địch nhắm vào sân bay Long Khánh đã bị đan chằng đan chịt kẽm gai vòng. Chiếc tank mới bị cháy nằm hơi xa ngoài hàng rào và nó là chiếc T-54 thứ 4 bị sơn lên pháo tháp dòng chữ “Tiểu đoàn 82 BÐQ diệt tank”. Năm 1981 tại trại Cải Tạo Z30 C Hàm Tân, có một Thiếu úy thuộc Liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy dù tên là Nguyễn Văn Vinh tìm gặp tôi, anh nói, “Tháng 5/1975 em bị nhốt ở Long Khánh, em ở trong toán tù binh bị bắt đi chùi những chữ ‘Tiểu đoàn 82 BÐQ diệt tank’ viết trên 4 cái tank T54 và 1 cái lội nước PT76 ở bìa rào phòng thủ Xuân Lộc. Công nhận Tiểu đoàn anh đánh tank tuyệt quá!”

Chiếc xe tản thương của Trung đoàn 43 đã đưa Binh nhì Phan Thọ về ngã ba Tân Phong, tháp tùng có Ðại úy Hoàn, anh phóng viên nhà báo và một anh y tá BÐQ. Khi quay trở về vị trí phòng thủ, ông Ðại úy tiểu đoàn phó kể lại chuyện dưới đây.

Xe tới BTL Hành quân SÐ18 thì Thọ rất mệt vì máu ra đã nhiều, anh xuống xe ngồi dựa lưng vào một gốc xoài. Ông Ðại úy Hoàn đi tìm sĩ quan quân y sư đoàn để xin tải thương. Bất ngờ tướng tư lệnh từ trong lều bước ra, thấy Thọ, ông hỏi, “Em là lính của ai? Bệnh gì? Muốn về Sài Gòn hả?” Thọ im lặng mở tấm băng lá cho tư lệnh thấy vết thương của mình, bất ngờ bộ ruột của anh trào ra khỏi miệng vết thương, máu anh tuôn xối xả. Anh y tá vội thưa, “Trình Thiếu tướng, anh này là lính TÐ82 BÐQ, ảnh bị phòng không bắn khi đang gỡ khẩu 12.8 ly trên cái chiến xa vừa bị bắn cháy. Thiếu tá em cho phép ảnh được tản thương về Sài Gòn đó Thiếu tướng.” Tư Lệnh la lớn: “Quân y đâu băng bó cho chú em ngay.” Ông quỳ xuống tự tay ấn từng đoạn ruột của người lính vào bụng của anh ta. Người y tá vội vàng làm phận sự của mình tiếp tay với Tư Lệnh. Ðại úy Hoàn vừa kịp quay lại chưa kịp chào trình diện thì Tư Lệnh đã lớn tiếng: “Phi hành đoàn C&C đưa gấp chú em này về bệnh viện Cộng hòa cho tôi.’’ Quay qua Thọ, tướng nhẹ giọng: “Em là lính của Thiếu tá Long, em can đảm lắm, qua sẽ cứu em!” Thọ lí nhí “Cám ơn Thiếu tướng” rồi nó quay qua Ðại úy Hoàn, “Cho em điếu thuốc đi Ðại úy”. Ðại úy Hoàn chưa kịp móc túi lấy thuốc cho Thọ thì tướng đã có sẵn điếu thuốc lá đưa vào môi người lính can trường, ông một tay che gió, một tay bật lửa mồi thuốc cho Thọ. Mặt Thọ tái xanh, những thớ thịt trên má bắt đầu co giật. Thọ hút một hơi thuốc dài, mắt Thọ long lanh, chợt anh ngoác miệng cười, “Khẩu phòng không còn mới cáu cạnh, nước thép xanh biếc thấy mê luôn Ðại úy ơi!” Ðại úy Hoàn an ủi, “Giờ này chắc tụi nó đã mang khẩu súng ấy về nộp cho Thiếu tá rồi. Mày nói đúng đó, nó còn mới cáu cạnh, hèn nào mày không mê nó đến đổ ruột luôn!” Thọ cúi đầu cười xẻn lẻn.

Cái bảng nhôm sơn đỏ có 2 ngôi sao trắng được lật mặt ra đàng sau trở thành cái bảng nhôm màu trắng thanh khiết bên hông chiếc C&C. Không bảng sao, cái trực thăng chỉ huy trở thành giản dị bình thường như ngàn vạn chiếc tàu khác. Trước khi lên máy bay, Thọ còn ra dấu cho Ðại úy Hoàn lại gần để anh nhắn nhủ một điều gì quan trọng lắm: “Em đi rồi không có ai pha cà phê sáng cho Thiếu tá Long. Ðại úy nhớ nhắc thằng Bích khi pha cà phê cho Thiếu tá thì cho ít đường thôi! Thiếu tá không thích uống ngọt lắm đâu. Nhờ Ðại úy nhắn với Thiếu tá rằng, khỏi bịnh, xuất viện là em lên với Thiếu tá ngay. Thôi em đi đây..” Không rõ Tư lệnh có nghe lời nhắn của anh lính BÐQ gởi cho thầy của anh ta không, nhưng rõ ràng đôi mắt Tư lệnh rưng rưng. Chiếc trực thăng khuất trong vòm mây từ lâu mà cánh tay Tư lệnh còn vẫy theo chưa hạ xuống.

Ðây không phải là lần đầu can trường của thuộc cấp làm tôi cúi đầu kính phục. Mà đã nhiều lần trong quá khứ, dưới quyền tôi không thiếu những ngưới lính dũng cảm như thế. Thời 1966 vùng triền sơn Quảng Nam đầy rẫy những họng súng bắn tỉa. Cứ nghe tiếng “tắc cù” là chú Hạ sĩ Phong lại đưa cái thân cao ngỏng còng queo của chú che cho tôi, chú nói: “Em phải che cho Thiếu úy, em trúng đạn có mình em chết, Thiếu úy trúng đạn cả chục người chết theo.” Rồi cũng có lần chú bị bắn toác nón sắt khi đưa thân che chở cho tôi khi đại đội tôi chạm địch gần ga Hương An Tam-Kỳ. Năm 1969 trong trận Bình Tây 49 dưới chân đỉnh Chư Pa, đại đội 1/TÐ11 BÐQ của tôi đánh cứu viện cho đại đội 4 của Trung úy Nguyễn Lạn khóa 20 Võ bị. Trận này quân nhân đơn vị của tôi và Lạn bị thương khá nhiều. Từ đầu trận, người lính mang đồ ngủ của tôi, anh Binh nhất Trung đã bị bắn bể hông phải. Ðã có nhiều chuyến tải thương đi mà Trung vẫn còn ngồi chờ trên bãi đáp. Tôi hỏi tại sao anh không lên máy bay về bịnh viện, anh phân bua: “Em chờ xem có ai để bàn giao đồ ngủ của Trung uý xong em mới yên lòng đi về.” Tôi ngỡ ngàng kêu lên: “Trời ơi! Sao mày khờ thế! Cứ quăng đại cho ông thường vụ! Lên tàu bay ngay! Luẩn quẩn ở đây đến chiều hết tàu tản thương, qua đêm máu ra hết thì chết!” Trung giao đồ ngủ của thầy anh ta cho ông thường vụ đại đội, bàn giao kỹ lưỡng nhiệm vụ của mình rồi mới chịu lên chuyến tải thương cuối cùng về Quân y viện Pleiku. Vết thương của anh nặng lắm, sau ngày lành bệnh, anh Binh nhất Trung đã được giải ngũ lãnh tàn phế 100%.
Những người lính của tôi dễ thương như thế ấy. Họ chỉ biết vâng lời người chỉ huy mình, bất kể đúng hay sai. Cấp chỉ huy ra lệnh tử thủ, họ tử thủ; cấp chỉ huy ra lệnh rút lui, họ rút lui; không ý kiến, không bàn cãi phán xét mà chỉ có tuân lệnh thi hành. Họ đã cùng tôi bao tháng ngày đồng hành qua những chiến trường rực lửa, từ Pleime qua Kiến Ðức tới Lâm Ðồng rồi về Xuân Lộc. Những người lính của tôi không màng đến vinh quang mà chỉ phụng sự cho cái vinh quang của người chỉ huy mình. Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ, nợ với tổ quốc, nợ với đồng bào, và nợ với thuộc cấp của mình, những người đã hy sinh cho cái vinh quang mà mình đã một thời nhận được. Là người cầm quân, vinh quang là cứu cánh, vinh quang là ý nghĩa của cuộc sống.

Vương Mộng Long

(Còn tiếp)