Chúng tôi đã giới-thiệu một số tình-khúc tiêu-biểu của một số nhạc-sĩ đi theo kháng-chiến. Tuần này chúng tôi bắt đầu đề-cập tới các nhạc-sĩ không theo kháng-chiến, nhưng tới năm 1954 khi đất nước bị phân-ly đã lựa chọn ở lại miền Bắc. Trong số những nhạc-sĩ không đi theo kháng-chiến nhưng sau này ở lại miền Bắc ấy, hai tên tuổi lớn nhất phải là Ðoàn Chuẩn, nổi tiếng với những bản nhạc tình uỷ-mị thiết-tha, và Hoàng Giác, nổi tiếng với những bản tình-ca chan-chứa tình người, tình quê-hương, đất nước.

Trong các bài trước, khi chúng tôi nhắc tới hai chữ “kháng-chiến” thì chỉ nhắc tới với ý nghĩa của thể chất, là phân-định chiến-tuyến của các nhạc-sĩ trong giai-đoạn binh lửa này. Còn “yêu nước” hay “không yêu nước”, “yêu nước một cách sáng suốt hay mê muội” là hoàn toàn tuỳ thuộc vào tâm-hồn và cách hành-xử trong cuộc sống của các nhạc-sĩ ấy, chứ không phải do vị-trí “bên này” hay “bên kia” chiến-tuyến.
Một trong những nhạc-sĩ sống ở Hà-Nội, lúc đó do Pháp chiếm đóng, nhưng lòng luôn hướng về quê-hương, dân-tộc, là Hoàng Giác. Sinh năm 1924, ông thuộc lớp nghệ-sĩ thứ hai của nền tân-nhạc Việt-Nam, cùng với những Ðoàn Chuẩn, Hoàng Trọng, Ngọc Bích, Nguyễn Văn Khánh, Phan Huỳnh Ðiểu, Văn Giảng, Châu Kỳ v.v. Ông sống tại Hà-Nội, thường lên đài phát-thanh để tự trình-bày một số ca-khúc của mình. Nhưng nếu nhìn vào toàn bộ sự-nghiệp âm-nhạc của ông và nhận xét kỹ nội-dung của từng ca-khúc, chúng ta sẽ thấy ông còn yêu nước hơn cả một số người đã rời bỏ thành-phố để đi theo lý-tưởng.
Các tác-phẩm của ông như “Quê-Hương”, “Hương Lúa Ðồng Quê”, “Khúc Hát Thương-Binh”, “Tiếng Hát Biên-Thuỳ”, “Anh Sẽ Về”, “Ngày Về”… đều là những ca-khúc đầy tình-tự quê-hương, chan-chứa tình người. Như lời hát trong bài “Quê-Hương”:
Ai qua miền binh khói, nhắn rằng nơi xa-xôi
Tôi vẫn mơ lùm tre xanh ngát
Về quê xưa để sống êm-đềm giấc mơ
Về quê xưa tìm bóng những ngày đã qua
Nhà thơ Nguyễn Ðình Toàn đã nhận xét: “Trong toàn thể nhạc của Hoàng Giác, lúc nào cũng thao-thức một niềm mong ước được trở về.” Trở về ở đây, theo suy nghĩ của chúng tôi, mang một ý nghĩa hết sức trừu-tượng và bao-quát. Ðó là sự tìm về quá-khứ êm-đềm, tiếc nuối những tháng ngày hoa mộng đã qua, hay nhớ lại những ước mơ bên dòng sông tuổi nhỏ. Cho nên bất cứ ai, dù đứng bên này hay bên kia chiến-tuyến, cũng mơ ước một sự trở về trong các ca-khúc của Hoàng Giác. Vì thế sau khi đất nước bị chia cắt, cuộc chiến-tranh giữa hai miền Nam-Bắc trở nên khốc-liệt, chính-quyền miền Nam đã sử-dụng bài “Ngày Về” của Hoàng Giác, một nhạc-sĩ đang sống ở miền Bắc, để làm nhạc-hiệu cho chương-trình Chiêu-Hồi, cũng chẳng có ai thắc-mắc, bởi vì bài hát ấy đã trở thành tiếng chim gọi đàn chung cho mọi loài chim, ở bất cứ nơi nào.

Tung cánh chim tìm về tổ ấm
nơi sống bao ngày giờ đằm thắm
nhớ phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi
luyến tiếc bao ngày xanh.
Tha thiết mong tìm về bạn cũ
nhưng cánh chim mịt mùng bạt gió
vắng tiếng chim xanh ngày vui hót tung mây
mờ khuất xa xôi nghìn phương
Trên đường tha hương, vui gió sương
riêng lòng ta mang mối nhớ thương
âm thầm thương tiếc cho ngày về
tìm lại đường tơ nay đã dứt
Nghe tiếng chim chiều về gọi gió
như tiếng tơ lòng người bạc phước
nhắp chén men say còn vương bóng quê hương
dừng bước tha hương lòng đau.
Người ta kể lại rằng ngày ấy, bài hát này phổ-biến tới mức những chàng lính viễn-chinh Pháp đóng tại Hà-Nội cũng thích hát. Có lẽ họ không hiểu được lời hát, nhưng âm-điệu đã khiến họ rung động và chạnh lòng nhớ cố-hương chăng. Chẳng khác nào bản “Come Back to Sorrento” tức bản “Trở Về Mái Nhà Xưa” nổi tiếng của phương Tây cũng từng khiến chúng ta có cùng tâm-trạng.

Nói về nhạc tình của Hoàng Giác, xét từng lời ca lẫn nét nhạc những bản như “Mơ Hoa”, “Lỡ Cung Ðàn”, “Bóng Ngày Qua” của ông, không vượt lên trên tác-phẩm của những tác-giả nổi tiếng khác. Thế nhưng ai cũng thích hát, ai cũng thích nghe. Có lẽ vì nhạc tình của ông có một sự gần-gũi với đối-tượng thưởng-thức, nồng-nàn xúc-động nhưng không thảm-sầu bi-luỵ. Hình như nghe bản nhạc tình nào của Hoàng Giác người ta cũng có thể thấy chính mình ở trong đó, với những kỷ-niệm, những mơ-ước, những nỗi-niềm riêng. Nhưng vượt lên trên tình-tự quê-hương, tình người và tình yêu đôi lứa, các ca-khúc của Hoàng Giác còn cho thấy ông là một người có tâm-hồn mơ-mộng. Và đó cũng là nguyên-nhân khiến sau năm 1954 thực-tế phũ-phàng đã khiến ông không còn nguồn cảm-hứng để sáng-tác nữa. Tuy nhiên, cũng giống như trong trường-hợp của Tô Vũ, chúng ta cũng không nên đòi hỏi thêm ở nơi Hoàng Giác. Bởi người nghệ-sĩ nói chung, và nhạc-sĩ nói riêng, vào thời ấy họ sáng-tác vì lòng yêu nghệ-thuật, vì rung động thực sự trong tâm-hồn, chứ không phải vì lợi-nhuận, bổng-lộc hoặc danh-vọng hay địa-vị. Cho nên một khi không có cảm-hứng, nguồn nhạc cũng cạn theo.
Cô hái hoa tươi, hãy dừng bước chân
Trên đường thầm xa, tôi nhắn cô em đôi lời
Lòng không lưu luyến, sao đành cô lãng quên,
Quên người gặp gỡ trong một chiều mơ.
Chuông chiều ngân tiếng vấn vương lòng trông theo cô hái hoa,
Bước đi bâng khuâng muôn ngàn sầu nhớ
bóng mờ mờ xa.
Tan giấc mơ hoa!
Bóng người khuất xa, đôi đường từ đây
Ai bước đi không hẹn ngày,
Người tuy xa cách nhưng lòng ta khắc ghi,
Bên đèn một bóng tháng ngày chờ mong
Lưu luyến chi nhau, thêm sầu đớn đau
Muôn trùng từ đây, trong gió sương thân giang hồ.
Đường xa xa tắp ngại ngùng chân bước quên,
Bên lòng thầm nhớ bóng hình người mơ.
Trên đường xa vắng bóng ai mờ khuất
lòng thêm vấn vương,
Gió thông xa đưa reo buồn sầu nhớ
tới người chiều xưa
Cô hái hoa ơi!
Mắt mờ đoái trông, sao đành thờ ơ
Trong giấc mơ ta mong chờ,
Dù hoa quen bướm âm thầm riêng có ta
Hoa còn tàn úa tơ lòng còn vương
https://youtu.be/Kme7zGWO2XE
Nguyễn Văn Khánh
Hiện nay trong chúng ta không ai còn nhớ năm sinh của tác-giả bài “Nỗi Lòng”, mà cũng chẳng biết ông mất năm nào, trong trường-hợp nào. Nhưng trước năm 1954, ở Hà-Nội hầu như giới yêu nhạc ai cũng biết tới tên tuổi của Nguyễn Văn Khánh. Vì ông không chỉ là một nhạc-sĩ sáng-tác mà còn là một trong hai nhạc-sĩ nổi tiếng mở lớp dạy đàn Hạ-Uy-Cầm. Người kia là ông William Chan. Thời ấy sinh-viên học-sinh miền Bắc hầu như ai cũng biết đàn hai loại đàn căn-bản là Mandolin và Banjo. Nhưng nếu muốn lãng-mạn thì phải học thêm Hạ-Uy-Cầm. Và thường chỉ học vừa đủ để trổ tài cho các cô bạn học, các cô hàng xóm thưởng-thức. Chỉ có những người ôm mộng sáng-tác mới dám mon-men tới lớp nhạc của Hùng Lân, một bậc thầy về nhạc-lý và người đã có công thành-lập ca-đoàn Lê Bảo Tịnh của Công-Giáo năm 1945 tại Nam-Ðịnh.

Ðặc-biệt, Nguyễn Văn Khánh chơi đàn bằng tay trái. Xưa nay người ta thường nói rằng những người chơi đàn bằng tay trái nếu không phải thiên-tài thì cũng có năng-khiếu đặc-biệt—như Jimi Hendrix của Mỹ, Paul McCartney của Anh, hoặc Hồ Ðăng Tín của miền Nam sau này. Vì xuất-thân là một nhạc-sĩ chơi Hạ-Uy-Cầm nên phần lớn các sáng-tác của Nguyễn Văn Khánh cũng đều mang âm-hưởng ngọt-ngào, êm-ái của loại nhạc-cụ ấy. Về lời hát, dáng vẻ mộc-mạc, tự-nhiên trong các tình-khúc của ông có lẽ còn gần-gũi với người nghe hơn cả các ca-khúc của Hoàng Giác. Tính cho tới khi im tiếng vào năm 1954, Nguyễn Văn Khánh đã cống-hiến cho đời 5 bản tình-ca. Trong đó 3 bản “Nỗi Lòng”, “Nhạc-Sĩ Với Cây Ðàn” và “Chiều Vàng” đã được xem là những tác-phẩm để đời.
Yêu ai, yêu cả một đời
Tình những quá khắt khe khiến cho đời ta
Đau tủi cả lòng vì yêu ai mà lòng hằng nhớ
Năm tháng trôi lạnh lùng hoài
Tình đó nhắc nhở luôn đến ta tình ai
Nhớ cả một trời
Tình yêu kia mà lòng nào quên.
Điệp khúc:
Lòng vẫn biết nếu yêu rồi một ngày
Là đến với đớn đau
Nhưng sao trong ta cứ vẫn yêu vẫn nhớ
Dầu sao, dầu sao nếu có một ngày
Một ngày ai reo tim ta
Là tình yêu kia ly tan
Và lòng vẫn thương vẫn nhớ
Tình đó khiến xui lòng ta đau
Rồi với bao ngày lặng lẽ sống
Nỗi đau trong lòng người yêu vẫn yêu hoài.
Yêu ai, ai hiểu được lòng
Thầm kín những đớn đau với riêng lòng ta
Ấp ủ lạnh lùng tình yêu kia mà người nào hay.
https://youtu.be/7k7NzH_1Plg
Trong giai-đoạn thành-lập và phát-triển của nền tân-nhạc Việt-Nam, tức là từ năm 1938-1954, hình như trong mỗi khoảng thời-gian ngắn lại có một tình-khúc nổi bật được ưa chuộng hơn hẳn những bản khác. Khởi đầu là “Biệt-Ly” của Doãn Mẫn, “Giọt Mưa Thu” của Ðặng Thế Phong, rồi tới “Cô Láng Giềng” của Hoàng Quý, “Bến Xuân” của Văn Cao. Sau “Cây Ðàn Bỏ Quên” của Phạm Duy tới “Em Ðến Thăm Anh Một Chiều Mưa” của Tô Vũ, và sau “Nỗi Lòng” của Nguyễn Văn Khánh là “Dư-Âm” của Nguyễn văn Tý.

Chúng ta không được biết nhiều về Nguyễn Văn Tý và các tác-phẩm của ông ngoài bản “Dư-Âm”. Và rất tiếc trong hai lần hiếm-hoi để cho một trung-tâm băng nhạc ở hải-ngoại phỏng-vấn, một lần vào năm 1995, một lần vào năm 2007, Nguyễn Văn Tý cũng đã không cho biết ngoài bản “Dư-Âm” được phổ-biến ông còn sáng-tác những bản nào khác. Ông chỉ cho biết hoàn-cảnh sáng-tác bản “Dư-Âm” là có thật.


Ðêm trăng ngày ấy, người đẹp xõa tóc bờ vai ôm đàn gửi tới ông những lời thề nguyền đẹp như muôn ý thơ. Vì thế dưới mắt người yêu nhạc có thể xếp Nguyễn Văn Tý vào hàng-ngũ những nhạc-sĩ chỉ ôm đàn một lần. Chỉ một lần, nhưng tác-phẩm ấy sẽ không bao giờ bị quên lãng.

Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ
Không gian trầm lắng như âu yếm ru ai trong giấc mơ
Mái tóc nhẹ rung, trăng vờn làn gió
Yêu ai anh nắn cung đàn đầy vơi đôi mắt xa vời
Anh yêu tiếng hát êm như lời nguyền đẹp bao ước mơ
Anh như lầu vắng em như ánh trăng reo muôn ý thơ
Muốn nói cùng em đôi lời trìu mến….
Tim anh băng giá đang ngại ngùng câu năm tháng mong chờ
Hẹn em từ muôn kiếp trước
Nhớ em mấy thuở bạc đầu
Anh đã âu sầu vì đường tơ vương vấn
Em để cung đàn đưa anh về đâu?
Dư âm tiếng hát reo lên trong lòng anh bao nhớ nhung
Đê mê lòng nhớ đêm qua giấc mơ môi em hé rung
Anh muốn thành mây nương nhờ làn gió
Đưa anh tới cõi mơ hồ nào đây muôn kiếp bên nàng.
https://youtu.be/B7JY11Lf2BY
HN