Có người Việt ở Bắc Âu ư? – Mùa thu năm 2004, tôi khăn gói lên đường, từ Quận Cam sang Stockholm với một mục đích duy nhất: dành một năm để tìm hiểu về đời sống của người Việt tại đây, dưới sự bảo trợ cho một học bổng toàn phần bậc tối ưu từ Chương trình Fulbright, thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Những gì tôi gặp gỡ và cảm nhận trong khối người Việt sống tại Thụy Điển đã mở mắt mở tim tôi, đánh bật những kiến thức và nhận định mà tôi vốn đã an tâm và thỏa mãn trước đây, từ góc nhìn của một người Việt sống ở ngay thủ đô tỵ nạn là Little Saigon, Quận Cam, California, Hoa Kỳ.

Khi tôi chuẩn bị lên đường, Ba Mẹ tôi đã rất lo ngại, vì tình hình khủng bố trên toàn cầu lúc đó, cũng như thái độ bài Mỹ của nhiều quốc gia Châu Âu. Ba Mẹ tôi hỏi, “Bộ ở Little Saigon này không đủ người để con nghiên cứu hay sao, mà phải đi tuốt qua Bắc Âu?” Tôi thông cảm và biết ơn gia đình đã quan tâm đến sự an toàn của tôi, nhưng tôi cũng phải quyết tâm để thực hiện lý tưởng nghiên cứu của mình.
Bên cạnh những câu hỏi mà giới nghiên cứu và thân hữu trong cộng đồng hỏi tôi về Thụy Điển nói chung, một câu hỏi khác hay được đặt ra là: Có người Việt sống ở Thụy Điển thật à? Chính vì ‘được’ trả lời câu hỏi này nhiều lần, nên tôi đã chọn nguyên văn câu hỏi này để làm tiêu đề cho bài thuyết trình Fulbright vào tháng Tư năm 2005 tại CSU Fullerton trong dịp tôi nghỉ phép về thăm nhà hai tuần.
Vâng, có chứ, tuy chỉ hơn hai mươi ngàn người, nhưng vẫn có người Việt sống ở Thụy Điển. Vậy tại sao ít ai biết đến người Việt sống ở Thụy Điển, hay sáu ngàn người Việt tại Phần Lan, nhưng biết nhiều về người Việt tại Na Uy?
Một trong những lý do chính khiến cho người Việt ở Na Uy thường được nhắc đến trong khối người Việt Bắc Âu có lẽ là do số lượng đông, sinh hoạt văn hóa và cộng đồng mạnh, và hội nhập thành công. Ở Thụy Điển và Phần Lan, hầu như không có sinh hoạt cộng đồng nào đáng kể cho người Việt tại đây, và sự hội nhập còn rất giới hạn.
Nếu tính đến sinh hoạt cộng đồng đại trào thì không có. Về sinh hoạt trẻ, thì chỉ có Hội Sinh Viên Việt Nam tại Thụy Điển mới chào đời cách đây 8 năm, nhưng cũng hoạt động chỉ trong ba năm. Về lãnh vực tôn giáo (và văn hóa), thì có một số chùa sinh hoạt các dịp lễ lớn trong Phật lịch, hay các tiệc mừng riêng như sinh nhật của Phật tử, và đại hội Phật Pháp liên Châu Âu được tổ chức ở Gothernberg theo chu kỳ. Bên cạnh đó, còn có các Giáo đoàn Công Giáo Việt Nam tại các địa phương sinh hoạt mỗi tháng một lần và hai dịp đại lễ Giáng Sinh và Phục Sinh.
Tôi biết đến người Việt tại Thụy Điển đầu tiên là chị bạn cùng lớp ESL tại trường Trung học Westminster tại Quận Cam. Chị đã di dân sang Thụy Điển, và tái di dân sang Hoa Kỳ. Sau đó, khi nghiên cứu về chủ nghĩa liên quốc gia, tôi có tham khảo tác phẩm thời thượng “Transnational Connections,” tạm dịch là “Những Tương Quan Liên Quốc Gia” của Tiến sĩ Ulf Hannerz.
Trong sách, Ts Ulf Hannerz nhắc đến ‘những người Việt thầm lặng’ tại Thụy Điển chỉ vỏn vẹn một dòng. Tôi thắc mắc, muốn biết họ thầm lặng như thế nào, và tại sao họ lại thầm lặng. Người Việt ở Little Saigon, quê tôi, thì không thầm lặng, mà rất sống động và muôn màu muôn vẻ nữa là khác.
Lý do tôi chọn Thụy Điển
Một câu hỏi tiên quyết trong đơn xin học bổng Fulbright liên quan đến lý do tôi chọn Thụy Điển để du học. Quan trọng hơn hết là những nguyên nhân liên quan đến học thuật dẫn đến quyết định chọn đi nghiên cứu ở Thụy Điển của mình. Trước hết, Dự án Vietnamese Stockholm Project (viết tắt là VSP) mà tôi đề ra, vốn là một trong nhiều đứa em ruột của Dự án Việt Mỹ (Vietnamese American Project, hay VAP) mà tôi khởi xướng với số tiền student loans từ những ngày mới qua Mỹ.
Như vậy, về phương pháp luận lẫn đề tài, Dự án VSP được dựa trên quá trình thử lửa và các thành quả của Dự án VAP. Nói một cách tóm tắt, tôi sẽ dùng phương pháp Lịch sử Truyền khẩu để ghi lại kinh nghiệm, lịch sử, đời sống, và cái nhìn của người Việt tại Stockholm, Thụy Điển. Sau khi thực hiện Dự án VAP được một thời gian, tôi có ý định sang các nước khác để thực hiện nghiên cứu song song và đối chiếu về kinh nghiệm của người Việt tại đó và ở Mỹ. Tuy nhiên, vì những công việc trước mắt và chưa có ngân sách, tôi đã không thể theo đuổi mong ước đó ngay được.
Trong thời gian hoàn tất chương trình Cao học ngành Lịch sử tại CSU Fullerton, tôi quyết tâm xúc tiến việc nghiên cứu về đời sống của người Việt ở các nơi khác. Tôi cũng nghĩ qua về Pháp, Đức, Anh, và một số nước khác có nhiều người Việt định cư tại Châu Âu. Tôi cũng có nghĩ qua về người Việt tại Châu Phi, nhưng tôi lại không có một manh mối nào. Tài liệu về người Việt tại Châu Âu, dù sao, cũng có thể tìm được dễ dàng. Úc Châu cũng là một địa điểm nghiên cứu tuyệt vời vì cộng đồng người Việt rất đông và mạnh ở xứ Kangaroo này.
Thế nhưng, sau nhiều suy nghĩ, tôi muốn đi đến một nước có quan hệ tương đối khác với những kinh nghiệm mà tôi đã ghi nhận qua Dự án Việt Mỹ. Một mặt, tôi muốn bước ra khỏi khung cảnh lịch sử đô hộ và chiến tranh để giúp mình nhìn về hai vấn đề này từ một góc độ khác. Mặt khác, tôi muốn đi về những miền xa xôi hẻo lánh trên bản đồ Việt hải ngoại, để có thể cảm nghiệm về đàn chim Việt trên bầu trời thế giới một cách phổ quát hơn.
Có thuyền nhân từ miền Bắc ư?
Từ câu hỏi “Có người Việt tại Bắc Âu ư?” tôi muốn hướng tới một câu hỏi khác: Có thuyền nhân đi từ miền Bắc ư? Có lẽ ít ai – đúng ra, là không có ai – đặt câu hỏi này. Chúng ta biết nhiều về cuộc tháo chạy từ Bắc vào Nam khi làn sóng đỏ ập vào miền Bắc, và từ miền Nam ra hải ngoại khi làn sóng ấy thiêu rụi miền Nam. Nhưng đôi khi, trong cộng đồng Việt tại hải ngoại, điển hình là những cộng đồng lớn ở Bắc Mỹ, Úc Châu, và Tây Âu, chúng ta ít khi đặt vấn đề về những người đã không kịp chạy lửa năm 1945, 1954, hay 1975 tại miền Bắc. Số phận của họ ra sao?
Chỉ đến năm 2004, khi thực hiện Dự án “Nhà Ta ở Stockholm,” tôi mới gặp những thuyền nhân từ miền Bắc lần đầu tiên, dù trong suốt 10 năm trước đó, tôi vẫn tìm hiểu và thực hiện các dự án nghiên cứu về người Việt hải ngoại và theo dõi sách vở tiếng Việt cũng như tiếng Anh. Và sau một năm nghiên cứu, tôi đã xác định cho chính mình, rằng đã chọn đúng địa điểm để nghiên cứu. Cộng đồng Việt Bắc Âu có những kinh nghiệm thật đa dạng, khác biệt với kinh nghiệm của người Việt ở Bắc Mỹ, Úc Châu, hay Tây Âu.
Và gần mười năm sau, tôi lại biết mình đã chọn đúng khi tôi có dịp đọc “Đường Phía Bắc.” Đây là một tác phẩm không dễ dàng được định loại vì sự đa dạng của nó. Gọi nó là một tác phẩm lịch sử, cũng đúng, vì những sử liệu trong đó. Gọi nó là một tác phẩm văn học, thì cũng đúng, vì tính chất văn chương của nó. Gọi nó là một hồi ký của nhiều người, thì cũng đúng, vì tác giả ghi lại những gì nghe được từ những người còn sống sót trên đường vượt biển từ biên giới Việt-Trung.
Ít có tác phẩm nào cuốn hút tôi, mà lại làm tôi e dè như “Đường Phía Bắc” của Lê Đại Lãng. Cuốn hút vì lối kể chuyện của tác giả, văn phong vững vàng, tình tiết lôi cuốn, câu văn mạch lạc. E dè, vì như mọi người Việt hải ngoại có chút vốn lịch sử căn bản, tôi biết, câu chuyện thuyền nhân luôn chứa đầy những oan khiên, hãi hùng, và chết chóc – cho dù có chút ánh sáng cuối chân trời cho một con số rất nhỏ. Đến hôm nay, không tổ chức quốc tế nào có thể xác nhận được con số thuyền nhân Việt bỏ mình trên biển, hay trong các trại tù Cộng Sản khi bị bắt được. Trang sử thuyền nhân là một trang sử bi tráng mà không phải bất cứ ai dám đối diện, hay có thể đối diện trong bất cứ lúc nào.
Nhưng tôi có thể chắc chắn một điều: người Việt nào đọc tác phẩm “Đường Phía Bắc” cũng sẽ bị xúc động mạnh mẽ. Phần tôi, vì tôi đã gặp những ‘nạn nhân’ của “Đường Phía Bắc” tại Thụy Điển, đã ghi nhận nhiều câu chuyện thương tâm của họ và gia đình, nên tôi càng bị chấn động mãnh liệt bởi tác phẩm này. Từ năm 2005, tôi vẫn nhắc đến ‘thuyền nhân phía Bắc’ trong các bài nói và viết của mình cho cả báo chí Việt ngữ, lẫn các bài chuyên đề trong học thuật.
Với ý thức về những khác biệt giữa kinh nghiệm thuyền nhân và quá trình di dân không giấy tờ của người Việt, tôi gọi những người Việt phi chính phủ – tại Biển Hồ ở Tonle Sap, hay ở bất cứ nơi đâu trên thế giới – là những “thuyền nhân miên viễn.” Họ đã ra khơi, chênh vênh trên đại dương của một bến bờ vô định, và vẫn còn đang trôi nổi vô hướng giữa biển khơi của thân phận phi chính phủ, của mịt mù. Khi gặp người Việt vô quốc gia tại Warsaw, Ba Lan, mà tôi gọi là “rừng nhân” vì họ vượt rừng để đến nước này, tôi đã đối chiếu những gian nan của họ trên đường vượt rừng với những chông chênh của thuyền nhân trên biển. Và khi gặp người Việt xuất khẩu lao động tại Đông Đức, tôi gọi họ là “tường nhân” vì họ đã trèo qua bức tường Bá Linh để trốn từ Đông Đức sang Tây Đức trước năm 1989, mưu cầu một cuộc sống tự do. Và với những thuyền nhân đi từ phía Bắc, tôi gọi họ là “những thuyền nhân câm nín.”
Trong bài phát biểu chính cho chương trình “Tưởng Niệm Thuyền Nhân Vượt Biển” do Hội sinh viên Gạch Nối tổ chức tại Đại học UC San Diego, tôi đã nhận diện tất cả những “thuyền nhân” của Việt Nam dọc dài lịch sử của 37 năm qua: những công nhân Việt đi xuất khẩu lao động ở Đông Đức, leo tường qua phía Tây để tìm tự do; những người Việt đi qua đường dây ‘bộ đội’ (tên gọi đường dây đưa người tại Đông Âu), vượt rừng sâu, đối phó với mọi gian nguy, để đi tìm tự do và một tia hy vọng cho bản thân và gia đình; những người Việt lênh đênh trên Biển Hồ, bám vào nước để sống, không biết ngày nào cập bến.
Khi chúng ta nhìn vào biến cố thuyền nhân không chỉ như một kinh nghiệm gói gọn trong khung cảnh miền Nam hậu 1975 và bị gián đoạn với chương trình thanh lọc và cưỡng bách hồi hương của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, thì chúng ta thấy, kinh nghiệm thuyền nhân vẫn còn nối dài đến ngày hôm nay, và nối từ Nam ra Bắc, từ Việt Nam đến khắp nơi trên thế giới.
“Đường Phía Bắc” của Lê Đại Lãng là một phần lịch sử cần thiết, trước nay vẫn còn câm nín, trong dòng lịch sử cận đại của dân tộc, và trong lịch sử hình thành của cộng đồng Việt hải ngoại. Tôi cho rằng tất cả mọi người Việt – dù ở nơi nào trên thế giới, ngay cả ở tại quê nhà – cũng cần và nên đọc tác phẩm này. Một lịch sử được viết bằng chính xương thịt và sinh tử của những người đã không còn dịp tìm con đường sống phía Nam, mà phải đi vào cửa tử phía Bắc. Để trăm người đi, may lắm thì có một người còn.
Chúng ta cùng đọc “Đường Phía Bắc,” để thắp nén hương cho những thuyền nhân Việt bị lãng quên, và để tang cho một giai đoạn lịch sử của đất nước vẫn còn đang nhỏ máu. Và để cho kinh nghiệm thuyền nhân của dân tộc được một lần trọn vẹn.
“Đường Phía Bắc,” tác phẩm của Lê Đại Lãng, Tuần báo Trẻ (Texas) xuất bản 2012. Ấn phí $15 (chưa cước phí). Liên lạc: 972 675 4383, tusachtreusa@gmail.com; 3202 N. Shiloh Rd., Garland, TX 75044.