Menu Close

Bí mật chưa tiết lộ

Lời giới thiệu: Quý độc giả hẳn không quên vụ khủng hoảng hoả tiễn giữa Nga và Mỹ tại Cuba vào năm 1962, với bối cảnh hai nước này đang ở vào thời kỳ Chiến tranh lạnh. Vụ đối đầu giữa hai cường quốc nguyên tử đã “nóng” dần lên đến cực độ, tưởng chừng như sẽ có một cuộc chiến tranh nguyên tử sắp xảy ra.

bi-mat-chua-tiet-lo1
Tàu ngầm Liên Sô trong khủng hoảng hỏa tiễn Nga Mỹ tại Cuba – nguồn nationalinterest.org

Trong một bài báo của tác giả Sebastien Roblin đăng trên tờ The National Interest, ngày 18 tháng 7 năm 2018, đã tiết lộ những tình huống mà ta không thể ngờ nó đã từng xảy ra cho những thuỷ thủ đoàn của Liên Sô một cách thật thảm thương dẫn đến nguy cơ nổ súng.

Chúng ta đều nghĩ rằng, những quyết định chiến tranh giữa các nước đối nghịch nhau thì thường đến từ các vị nguyên thủ quốc gia. Thật ra, nhiều khi diễn biến này ở ngoài tầm tay của Kennedy hay Khrushchev, mà nằm ở một nhóm các thuỷ thủ, đang trong tình trạng ngắc ngoải, vì thiếu nước uống và bị thấm hơi độc của khí CO2, trong một khoang tàu của một chiếc tàu lặn. Chiếc tàu này đang lâm tình trạng hư hỏng và bị những chiến hạm Hải quân Hoa Kỳ bao vây tứ phía mà không thể liên lạc được với Mạc Tư Khoa để nhận lệnh.

Hai vị sĩ quan chỉ huy trên tàu đã cho lệnh sửa soạn phóng hoả tiễn mang đầu đạn nguyên tử vào chiến hạm của Hoa Kỳ.

Khởi thuỷ vụ khủng hoảng hoả tiễn Cuba, được đặt tên là “Cuộc điều động Anadyr”, Sô Viết đã hoạch định đưa 50,000 quân nhân cùng những loại vũ khí hạng nặng đến Cuba bằng đường biển một cách bí mật. Những sĩ quan chỉ huy đội quân ấy chỉ biết nơi đến từ lá thư của nhân viên tình báo KGB đưa ra khi ở ngoài khơi.

Tổng cộng có tới 86 tàu của Liên Sô chứa toàn bộ sư đoàn trang bị vũ khí tự động tối tân đến Cuba, cùng với 40 phi cơ phản lực chiến đấu Mig-21, hai sư đoàn chống máy bay trang bị SA-2 hoả tiễn đất đối không (SAMs), 16 bệ phóng hoả tiễn R-12 và R-14, 6 phi cơ phản lực thả bom Il-28, 12 hệ thống hoả tiễn liên lục địa chiến thuật FROG-3, với ba hệ thống mang đầu đạn nguyên tử.

Cả đội quân và vũ khí được che giấu khỏi tầm nhìn bên ngoài các chiến hạm. Nói chung thì sự che giấu của Sô Viết đã khá thành công.

Vào ngày 14 tháng Mười, một chiếc phi cơ thám thính của Mỹ U-2 đã chụp hình được những hoả tiễn liên lục địa của Sô Viết đặt tại San Cristobal trên đất Cuba. Tám ngày sau đó, Tổng thống Kennedy ra lệnh phong toả Cuba. Hoa Kỳ điều động hàng trăm tàu Hải quân gồm cả bốn Hàng không mẫu hạm, cũng như một số lớn phi cơ tuần thám bờ biển để thi hành nhiệm vụ phong toả.

bi-mat-chua-tiet-lo2
Bằng chứng được trình bày bởi Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, tên lửa của Liên Sô tại Cuba. Bức ảnh được chụp ngày 23 tháng 10 năm 1962, trong khuôn viên tên lửa đạn đạo tầm trung đang được xây dựng tại khu vực San Cristobal của Cuba. . Nguồn AP photo/DOD

Ða số chiến hạm đã quay đầu lại, chỉ một số nhỏ cố vượt hàng rào phong toả.

Những tuần trước đó, Liên Sô đã tổ chức cuộc hành quân được đặt tên là Kama để triển khai bốn tàu ngầm loại dầu cặn lớp Foxtrot với danh số B-4, B-36, B-59 và B-130, mang thuỷ lôi thuộc hạm đội tàu ngầm có danh hiệu “Thứ 69” đến hải cảng Mariel của Cuba.

Những tàu ngầm lớp Foxtrot này hạ thủy vào năm 1957 – thiết kế còn lạc hậu. Tàu rất “ồn ào” vì có ba cánh quạt đẩy phía sau. Một ngăn lớn của tàu ngầm này chỉ để dành chứa một số lớn bình điện ắc-quy. Tốc độ tối đa là 2.3 miles một giờ. Và với đoàn thuỷ thủ là 78 người thì đành phải sống trong ngăn tàu còn lại rất chật hẹp. Tàu không có máy lạnh để dùng trong vùng biển thuộc miền nhiệt đới.

Sau đó, Liên Sô cũng điều động hai tàu ngầm khác lớp Zulu, một có danh số B-75 dùng để hộ tống cho những tàu Liên Sô mang hoả tiễn liên lục địa đến Cuba. Còn một với danh số B-88 thì được điều tới biển vùng Trân Châu Cảng ở đảo Hawaii của Mỹ, nếu chiến tranh xảy ra giữa Mỹ và Liên Sô,  họ sẽ tấn công Trân Châu Cảng. Hải quân Hoa Kỳ đã không hề phát giác được sự hiện diện của hai chiếc này.

Ðội tàu ngầm bốn chiếc lớp Foxtrots đã vượt biển từ bán đảo Kola vào ngày 1 tháng 10 và lặn sâu dưới nước để cố tránh né phi cơ chống tàu ngầm tên Neptune và Shackleton của khối NATO trên biển Bắc Ðại Tây Dương. Hiện trạng cuộc sống của các thuỷ thủ trong những chiếc tàu ngầm, phải lặn sâu dưới nước, càng ngày càng trở nên không thể chịu đựng nổi. Nhiệt độ trong tàu lên từ 100 đến 140 độ F. Khí CO2 ngày một tăng cao khiến thuỷ thủ đoàn trở nên yếu mệt về cả tinh thần lẫn thể xác. Vấn đề thiếu nước ngọt trên tàu để uống khiến tình trạng mất nước (dehydration) lan rộng, và bệnh ngứa truyền nhanh trong toàn thể các thuỷ thủ. Họ cần trồi lên.

Vào ngày 23 tháng 10, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara của Mỹ ra lệnh các tàu chiến Mỹ dùng một loại vũ khí đặc biệt được gọi là PDCs (Practice Depth Charges), có cỡ như quả lựu đạn với mục đích như ra tín hiệu cho thuỷ thủ tàu ngầm Nga biết là tàu ngầm đã bị phát hiện để buộc họ phải trồi lên mặt nước.  Tuy nhiên, những “cục tín hiệu nổ” đó đã khiến cho những cột ăn-ten của tàu ngầm bị hư hại, và càng làm cho thuỷ thủ đoàn hoảng sợ vì họ không phân biệt được tín hiệu đó từ vũ khí đặc biệt này. Mặc dù phía Mỹ trước đó đã thông báo cho Mạc Tư Khoa về phương cách dùng “cục tín hiệu nổ” để bảo họ phải trồi lên mặt nước (chứ không phải để tấn công), nhưng thông báo đó không thể truyền được cho các tàu ngầm của hạm đội 69th.

Hải quân Hoa Kỳ đã không nhận thức được mối nguy hiểm của “trò chơi mèo vờn chuột” mà họ đã sử dụng cho đội tàu ngầm Sô Viết. Sở dĩ nó nguy hiểm vì ngoài 21 thuỷ lôi loại thường, mỗi tàu ngầm lớp Foxtrot còn trang bị một vũ khí tối hậu: loại thuỷ lôi T-5 mang đầu đạn nguyên tử RDS-9. Thuỷ lôi T-5 có tầm hoạt động là 10 ki-lô-mét và tầm công phá dưới nước là 35 mét đủ để phá huỷ thân tàu gần đó qua sức ép của sóng.

Dù có nói gì đi chăng nữa, nếu có bất kỳ một đầu đạn vũ khí hạt nhân nào của phe bên này khai hoả ở vùng vịnh Caribbean thì cũng sẽ có hàng loạt vũ khí hạt nhân của phe bên kia đáp trả lại.

Lúc đó thuyền trưởng Nikolai Shumkov trên chiếc tàu ngầm B-130 cũng đã ra lệnh đưa loại thuỷ lôi mang đầu đạn nguyên tử lên giàn phóng. Với những bình ắc-quy đều cạn kiệt, tầu B-130 bắt buộc phải ngoi lên mặt nước ngay trước mũi chiếc pháo hạm USS Blandy của Mỹ vào ngày 30 tháng 10. Còn tàu ngầm B-36, bị pháo hạm Charles P. Cecil của Mỹ đuổi theo, Tàu ngầm B-36 cũng lâm vào tình thế cạn kiệt điện trong bình ắc-quy và cũng quay đầu về nước ngày 31 tháng 10.

bi-mat-chua-tiet-lo
Tổng thống John F. Kennedy(X) gặp các thành viên của Ủy ban điều hành của Hội đồng An ninh Quốc gia (EXCOMM) về cuộc khủng hoảng ở Cuba.- nguồn jfklibrary.org

Tuy nhiên, một biến cố nguy hiểm nhất là vào ngày 27 tháng 10, thời gian mà tình trạng căng thẳng giữa Mỹ và Liên Sô lên đến cao điểm. Một chiếc phi cơ thám thính của Mỹ bay đến gần tàu ngầm B-59 nên đã khiến cho tàu ngầm này phải lặn xuống biển khi bình ắc-quy chưa kịp tích điện. Pháo hạm USS Beale của Mỹ thả ào ào loại “lựu đạn PDCs” (đã mô tả ở trên) . Tiếp đó hàng chục pháo hạm trong hạm đội theo Hàng không mẫu hạm US Randolph cũng làm theo.

Victor Orlov là sĩ quan truyền tin trên tàu ngầm của Nga gọi đó như trận chiến đã bị bỏ bom kéo dài hàng giờ, anh ta nói: “Nó giống như khi bạn ngồi trong một thùng sắt mà có ai bên ngoài dùng búa cứ gõ mãi lên trên cái thùng sắt. Thuỷ thủ đoàn đều bị chấn động”.  Thuyền trưởng tàu ngầm Nga là Valentin Savitsky vẫn một mực cho chiếc B-59 lặn dưới nước mặc dù nhiệt độ trong tàu đã lên đến 112 độ F và khí oxygen ngày càng cạn kiệt, khiến cho các thuỷ thủ muốn ngất xỉu.

Anatony Andreyev là một thuỷ thủ trong chiếc tàu này đã mô tả tình trạng tồi tệ của thuỷ thủ đoàn tàu ngầm B-59 trong nhật ký anh viết cho vợ: “Chúng tôi không có khí trời để thở trong bốn ngày. Trong khoang tàu thì nóng và nghẹt thở, quá nhiều khí carbon trong khoang. Tôi cảm thấy toàn thân yếu mềm, chóng mặt, toàn thân như nổi mề đay.” Nói về thuyền trưởng Savitsky, Andreyev đã viết: “Một điều tồi tệ nhất là tinh thần của thuyền trưởng đã lên cơn khủng hoảng, hắn la lối với tất cả mọi người và hành hạ với chính cả bản thân hắn ta. Thuyền trưởng đã lâm vào tình trạng hoang tưởng, sợ hãi với chính cái bóng của mình. Hắn không nghe ai nói hết. Tôi cảm thấy tiếc và đồng thời giận dữ với những hành động liều lĩnh của hắn.”

Vì không thể liên lạc được với Mạc-Tư-Khoa, thuyền trưởng Valetin Savitsky đã tự kết luận là chiến tranh đã nổ ra rồi. Savitsky đã ra lệnh đưa thuỷ lôi mang đầu đạn nguyên tử lên giàn phóng và sửa soạn bắn vào tàu USS Randolph.

Thông thường, khi có sự chấp thuận của hai vị sĩ quan chỉ huy thì đủ để thi hành việc phóng thuỷ lôi. Nhưng một trường hợp ngẫu nhiên xảy ra là lúc đó trên tàu có thêm sự hiện diện của Arkhipov, vị chỉ huy trưởng hạm đội, được xem là người có quyết định tối hậu. Arkhipov đã kịp thời ngăn cản và bàn thảo với Savitsky để không bắn mà trồi lên mặt nước.

Khi chiếc tàu ngầm B-59 vừa trồi lên khỏi mặt nước biển thì bị đèn rọi chiếu của những pháo hạm, máy bay trực thăng và phi cơ phản lực thuộc Hàng không mẫu hạm Randolph Mỹ quần thảo xung quanh trên độ cao thấp và chĩa súng vào cùng với những lời cảnh báo phát ra từ loa phóng thanh. Tàu ngầm Sô Viết bị buộc phải quay hướng về nhà.

Còn lại các tàu ngầm khác của Liên Sô cũng phải quay đầu trở về bến nhà.

Kết cuộc, Tổng thống Kennedy đã giải quyết cuộc khủng hoảng hoả tiễn Cuba với Khruschev ở một cuộc họp thương lượng bí mật vào ngày 28 tháng 10, năm 1962.  Trong đó Mỹ đồng ý rút hết hoả tiễn của Hoa Kỳ đang đóng ở Thổ Nhĩ Kỳ về nước và hứa không xâm chiếm Cuba, để đổi lại Liên Sô sẽ rút hết vũ khí nguyên tử của mình từ Cuba về nước.

Giả sử không có Arkhipov trên tàu thì B-59 với thuyền trưởng đang cơn khủng hoảng tinh thần đã nổ súng khai hỏa vào chiến hạm Mỹ thì hậu quả không biết đâu mà lường.

ĐTĐ