Là lực lượng trừ bị cơ hữu của Vùng 2 nên Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân, cứ sáng có mặt ở Kontum, chiều đã về Phú-Bổn, nay Lâm-Đồng, mai Quảng-Đức. Tháng trước chúng tôi bị đặt dưới quyền chỉ huy của Biệt Khu 24, tháng sau chúng tôi đã nằm dưới quyền chỉ huy của Task Force South, cứ xoay vần như thế suốt năm 1968.Trong thời gian tăng phái hành quân cho Task Force South tôi đã có dịp được phục vụ dưới quyền một niên trưởng thật tuyệt vời.

Ðà-Lạt tháng Năm…
Một buổi trưa, Ðại Ðội 1/11 Biệt Ðộng Quân của tôi đang giữ nhiệm vụ bảo vệ căn cứ pháo binh Hoa-Kỳ tại phi trường Cam-Ly thì được lệnh cấp tốc lên đường cứu viện cho cánh quân của đại úy tiểu đoàn trưởng. Cánh quân này, gồm Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân cùng hai Ðại Ðội 2/11 và 3/11, đang bị một tiểu đoàn Việt-Cộng bao vây tấn công rất dữ dội trong vùng rừng rậm cách Ðà-Lạt năm cây số về hướng Tây Nam. Ðại úy Hồ Khắc Ðàm, Khóa 16 Võ Bị, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân đã bị thương.
Chúng tôi đi như chạy, chỉ mấy phút sau đã đứng trên đỉnh đồi 1632.
Qua một yên ngựa, tôi chuyển đội hình thành tam giác mũi trước, khẩu đại liên 30 làm mũi, Trung Ðội 1 của Thượng sĩ Ngọ bên phải, Trung Ðội 3 của Chuẩn úy Biện bên trái.
Tiền quân vừa di chuyển tới con dốc cuối yên ngựa thì súng nổ. Ðề lô của tôi hôm đó là hai người Mỹ. Hai anh này là người của đơn vị pháo binh Mỹ mà tôi đang bảo vệ. Mười sáu khẩu 105 ly chỉ nằm cách chúng tôi chừng hai cây số phía sau lưng.

“Hai chục tràng hiệu quả!”
Ðạn vừa nổ xong, lại tiếp:
“Hai chục tràng hiệu quả!”
Cứ thế, tôi dùng đạn đại bác mở đường, rồi thận trọng tiến lên. Thời buổi đó đạn dược quá dồi dào, bắn không hạn chế.
Trước mặt tôi, địch trải quân rất thưa, chủ đích của chúng là cầm chân chúng tôi, trong khi lực lượng chính của chúng đang nỗ lực dứt điểm cánh quân của Ðại úy Ðàm.
Rừng thông không rậm lắm, nhưng có rất nhiều ổ mối. Mỗi ổ mối có thể là một ụ súng của địch.
Khi nghe được những tiếng súng bắn tay từ vùng giao tranh phía trước, tôi bắt đầu xin Không Quân đánh tiếp cận ngay trước mặt để tiến lên.
Tôi đã sử dụng hai phi xuất AD6 Sky Raider thả liên tiếp bốn trái Napalm xuống cái khe núi ngăn cách chúng tôi và ngọn đồi cao nhìn xuống trận địa của Ðại úy Ðàm.
Tới đỉnh ngọn đồi đối diện với mục tiêu, tôi phân vân không biết sẽ tiến chiếm ngọn đồi bên kia bằng cách đâm thẳng xuống suối, hay bằng cách đi vòng về bên phải, theo hướng Tây. Con đường vòng thì an toàn, nhưng hơi xa, mà tình trạng của anh Ðàm lại đang nguy khốn. Cuối cùng tôi chọn con đường ngắn. Tôi dàn quân hàng ngang, vừa đi vừa bắn.
Tới nửa dốc, anh đề lô Mỹ báo cho tôi hay rằng, máy bay quan sát L.19 trên trời bị phòng không của Việt-Cộng bắn trúng, viên phi công bị thương, phải rời vùng. Chiếc L.19 mới lên thay chưa biết đâu là bạn, đâu là địch, nên phi công đòi chúng tôi đánh dấu vị trí quân bạn bằng khói vàng cho anh ta nhận diện. Tôi liền cho đánh hai trái khói vàng, một bên phải, một bên trái trục tiến.
Một phút sau, tôi nghe anh phi công và anh quan sát viên tiền tuyến thay nhau cự nự rằng tại sao họ thấy ở dưới đất có tới bốn, năm vị trí khói vàng, trong khi chúng tôi báo cáo rằng chỉ có hai?
Họ yêu cầu chúng tôi đánh dấu lại bằng khói đỏ. Tôi vội vàng thỏa mãn yêu cầu của họ ngay lập tức.
Nhưng cũng chỉ một phút sau, phi công lại khiếu nại, vì thấy dưới đất xuất hiện tới bốn, năm cột khói đỏ!
Như vậy là địch đã nghe được những lời đàm thoại của quân ta, và chúng đã làm cho L.19 không biết đâu là bạn đâu là địch!
Tôi chưa biết phải xử trí ra làm sao trước tình trạng éo le này thì, “Xoẹt!” một trái rocket từ phi cơ L.19 đã phóng xuống cách tôi chừng mười mét.
Anh đề lô Mỹ vừa kéo tay tôi chạy về bên trái vừa hét vào ống nói truyền tin: “Check air! Check air!” (Ngừng không yểm!Ngừng không yểm!)
Ngay lúc đó, trước mặt tôi, cách tôi chừng hai chục mét, dưới khe, có nhiều họng súng của Việt-Cộng, cá nhân có, cộng đồng có, đua nhau bắn lên trời.
Một chiếc khu trục cơ chúc đầu xuống theo trục Ðông Tây; tôi và anh đề lô Mỹ nắm tay nhau dẫn đầu đoàn quân chạy thục mạng theo hướng ngược lại.
“Ùm!” một quả bom nổ dưới suối, sau lưng. Anh Mỹ mang máy truyền tin té sấp mặt xuống đất. Tôi đỡ anh ta dậy, may quá! Không sao! Nhưng một mảnh bom bay sượt qua, đã bứng đi mất một nửa cái máy PRC 25 của anh.
Chiếc AD6 thứ nhì lao xuống, ngóc lên:”Ùm!”
Ðất đá bay rào rào, khói đen cuồn cuộn khét lẹt.Chúng tôi cắm đầu chạy về hướng Ðông. Hai chiếc máy bay vẫn tiếp tục chúc đầu xuống, ngóc đầu lên,
“Cạch! Cạch!…Cạch!Cạch!…” đại liên trên cánh chim sắt bắt đầu khạc đạn.
Chạy được một đoạn đường rừng khá xa, tôi kéo quân lên một bình nguyên cỏ tranh, lập lại đội hình.
Anh đề lô mượn tôi một cái máy truyền tin. Anh ta đang loay hoay chưa vào được tần số không lục thì chiếc L.19 quái quỷ đã theo kịp.
Thiếu úy Duyên, Ðại đội phó 1/11 leo lên một mô mối, giơ cái bản đồ vẫy vẫy anh phi công.
Ðâu ngờ, lại “Xoẹt!”
Phi công đáp trả cái vẫy tay thân thiện của Thiếu úy Duyên bằng một quả khói cắm ngay giữa đội hình của Ðại Ðội 1/11! Ông Duyên vội vàng vứt tấm bản đồ,co giò tẩu thoát.
Cứ cái trò chạy nước rút từng chặng như thế này, chắc chẳng bao lâu tụi tôi đứt ruột mà chết!
Tôi không có cách nào bắt Không Quân ngừng truy đuổi được. Quân ta và quân địch gần nhau quá! Nếu chúng tôi ngừng lại để thanh toán tụi Việt-Cộng đang bám đuôi thì chúng tôi sẽ chết vì bom của Mỹ ngay.
Khóc dở, mếu dở, vừa chạy, vừa thở, chợt nhớ ra một điều, tôi níu vai thằng Ty vặn cái chốt đổi tần số truyền tin sang địa chỉ của liên đoàn.
Trung tá Hồ Hữu Dõng, Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân đang theo dõi tình hình trên máy; ông can thiệp ngay, nên chỉ vài phút sau, chiếc quan sát cơ đã vội vã quẹo ngược về hướng Tây.
Trung tá Dõng ra lệnh cho tôi giữ liên lạc với liên đoàn để ông có thể trực tiếp yểm trợ cho tôi trong thời gian này. Ông nói, vì phải chia quân ra ngăn cản đoàn viện binh của tôi, nên áp lực của Việt-Cộng trên cánh quân của Ðại úy Ðàm cũng giảm bớt, nhờ vậy, lực lượng bạn đã giữ vững được vị trí. Ông cho tôi hay, cũng nhờ không quân Hoa-Kỳ can thiệp hữu hiệu, chứ không thì hai đại đội bạn đã bị địch tràn ngập rồi.
Tới lúc này, tần số của tiểu đoàn đã hết nhiễu loạn, các cánh quân đã gọi được nhau.
Tôi ngóng cổ gióng hướng. Hóa ra tôi chỉ còn cách Quốc lộ 20 chừng hơn cây số!
Từ đỉnh đồi bên này, tôi nhìn thấy xa xa, trên sườn một ngọn đồi hướng Nam, có một đoàn quân đang di chuyển về hướng Tây, nhiều người trong đoàn quân đó che mưa bằng những tấm nhựa trắng dùng để bọc đầu đạn pháo binh. Thì ra đó là Ðại Ðội 4/11!
Ðại Ðội 4/11 cứ phoong phoong theo đường xe be, chẳng đụng chạm gì cả, nên họ bắt tay được Ðại úy Ðàm lúc xế chiều. Còn tôi, phải băng qua hai cái khe và một ngọn đồi, nên tối mịt mới tới được nơi xảy ra giao tranh. Tiếng súng đã im từ lâu.
Ngày hôm đó tiếng máy bay và tiếng đại bác vang dội núi đồi suốt từ trưa cho tới tối mịt, khiến dân chúng Ðà-Lạt phải trải qua một bữa hoảng hồn. Sau lần hành quân này mỗi quân nhân tham chiến của đại đội tôi đều được bồi hoàn đặc biệt một đôi giày mới, và một bộ rằn ri mới.
oOo
Lâm-Ðồng tháng Tám…
Ðại Ðội 1/11 bị tách riêng ra khỏi tiểu đoàn, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn. Lúc này Trung tá Bùi Văn Sâm đã thay thế Trung tá Hồ Hữu Dõng giữ chức Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân.
Chúng tôi được trực thăng vận vào Gia-Bắc, một bản Thượng bỏ hoang, nằm trên Liên tỉnh lộ 8B nối liền Di-Linh (Lâm-Ðồng) với Thiện-Giáo (Phan-Thiết).
Nhiệm vụ của tôi là, thiết lập một căn cứ hỏa lực dã chiến cho một pháo đội Hoa-Kỳ. Ðây cũng là nơi Trung tá Sâm đặt bản doanh bộ chỉ huy hành quân của ông. Pháo đội này của Mỹ sẽ yểm trợ hỏa lực cho các cánh quân đang truy lùng địch vùng liên ranh Cao Nguyên và Duyên Hải.
Sau khi lập xong vòng đai an ninh căn cứ, tôi tung các toán tuần tiễu xa, rồi ngồi chờ pháo binh Hoa-Kỳ chuyển vận súng vào vị trí.
Trực thăng Chinook rần rộ theo nhau đáp. Chưa đầy hai giờ sau, mười sáu khẩu đại bác 105 ly đã sẵn sàng tác xạ.
Tới chiều, ông thượng sĩ trưởng toán liên lạc truyền tin của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh chạy ra tìm tôi, báo tin:
-“Anh Ðào” đang trên đường đến thăm.
“Anh Ðào” là danh hiệu truyền tin của Chuẩn tướng Trương Quang Ân (Khóa 7 Võ-Bị), Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh, kiêm Tư Lệnh Task Force South.
Tôi đã đón Tư Lệnh tại bãi trực thăng, thuyết trình cho ông về quân số lực lượng phòng vệ, về các toán tuần tra dã ngoại, và kế hoạch phản ứng khi bị địch tấn công hay pháo kích. Tôi dẫn Tư Lệnh duyệt một vòng vị trí phòng thủ của đơn vị trước khi đưa ông vào hầm chỉ huy của liên đoàn để nghe trung tá liên đoàn trưởng tường trình diễn tiến hoạt động của Biệt Ðộng Quân trong lần hành quân này.
Vài tháng trước, sau khi đại đội tôi tịch thu được một kho gạo của địch trong Mật Khu Tứ-Quý, Lâm Ðồng, tôi đã giáp mặt Chuẩn tướng Tư Lệnh Task Force South một lần, và đã được ông gắn cho một Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc. Dịp đó, trong hàng quân, tôi chỉ được ông Tướng bắt tay một cái, nghe ông khen một câu “Tốt lắm!” rồi thôi. Lần này tôi có cơ hội tiếp xúc với ông lâu hơn, nghe ông nói nhiều hơn và nhìn mặt ông rõ hơn.
Sau khi đưa Tư Lệnh tới bộ chỉ huy nhẹ liên đoàn, tôi trở về lều của mình, leo lên võng nằm nghỉ. Rồi tôi chợp mắt ngủ quên. Ngoài lều, đám “tà lọt” của tôi ngồi đấu láo.

Tôi đang mơ màng thì giật mình vì tiếng ông Thượng sĩ Nguyễn Lược, trung đội phó, Trung Ðội 3,
– Vào hàng! Phắc!
Tôi ngồi dậy, nhoài người, thò đầu ra khỏi lều quan sát.
Chuẩn tướng Tư Lệnh đang bắt tay từng quân nhân đang hiện diện trên bãi cỏ gần lều của tôi.
Ông ân cần hỏi han từng người, về tình trạng lương thực, về việc uống thuốc ngừa bệnh sốt rét rừng, về vấn đề thư từ liên lạc với gia đình, về chuyện bồi hoàn quân trang sau mỗi đợt hành quân dài ngày…
Tuyệt đối, tôi không nghe vị Tư Lệnh này “quay” thuộc cấp với những câu hỏi liên quan đến xẻng, cuốc, bi đông, nón sắt, dây ba chạc, tiêu lệnh khi gác giặc, hay cấp số đạn mang trên lưng…
Trò chuyện cùng thuộc cấp một hồi, Tư Lệnh mới thong thả quay lưng, đi về hướng chiếc trực thăng đang chờ trên bãi. Ông dừng lại giữa đường, giơ tay ra dấu cho đoàn tùy tùng. Ðoàn tùy tùng của ông Tư Lệnh đang ghé thăm toán Liên Lạc Truyền Tin của Sư Ðoàn 23. Có một nữ quân nhân trong đoàn tùy tùng. Người nữ quân nhân này chính là phu nhân của ông Tướng. Bà đang cùng ông Thiếu tá Thịnh, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn Truyền Tin Sư Ðoàn 23 thăm hỏi những người lính bộ binh.
Tôi nghe tiếng Trung sĩ Nguyên, cựu Thiếu Sinh Quân, đang vòi vĩnh bà vợ ông Tư Lệnh:
– Chị cho em vài trăm đi chị! Em cạn túi rồi, thèm thuốc lá quá, mà chưa tới ngày lãnh lương…
Bà “Chị Dâu của Thiếu Sinh Quân” lục túi xách tìm tòi một phút, rồi nhỏ nhẹ, như phân bua.
– Chị vét túi, chỉ còn năm chục, em cầm tiêu đỡ. Anh chị cũng… chưa tới ngày lãnh lương.
Sương trắng từ khe núi bắt đầu dâng lên. Chiếc trực thăng cất cánh, rồi chui vào tầng mây thấp. Tiếng động cơ “Bạch!bạch!bạch! …” loãng trong gió, xa dần.
“Niên trưởng” và “Chị” đi rồi. Nhưng hình như, tình huynh đệ chi binh còn vương đâu đây, trong tim chúng tôi…
Ðêm xuống, trời trở gió, rồi mưa to. Nửa đêm, xảy ra một chuyện bất thường.
Từ thung lũng đen ngòm dưới kia, bỗng vang lên những âm thanh ầm ầm như động đất. Chấn động tràn lên đồi, khiến căn lều của tôi cũng rung rinh như muốn sập.
“Ðộng đất! Ðộng đất! Bà con ơi!” Thượng sĩ Lạc, thường vụ đại đội, vừa gõ kẻng báo động vừa lớn tiếng la liên tục.
Thế rồi, nhanh như cơn lốc, hàng trăm con voi rừng ào ào vượt dốc xông lên. Cây rừng bị voi đè gãy đổ kêu răng rắc. Khi đàn voi tới cách lều của tôi chừng hai chục thước thì con đầu đàn giẫm phải đống lửa còn nghi ngút khói sau cơn mưa của ông Lạc. Than củi bay lên tung tóe làm nó hoảng hồn, vội quẹo sang bên phải. Thế là cả đàn voi ùn ùn theo nhau dạt về hướng Tây, khu đặt pháo của Hoa Kỳ. Quân Mỹ la chí choé.
Ðợi đàn voi đi qua, tôi cho quân báo động, dàn quanh khu pháo binh để những xạ thủ Mỹ kiểm tra tình trạng súng ống xem có thiệt hại gì không?
Dưới ánh đèn pha, tôi thấy năm, sáu khẩu đại bác 105 ly bị voi ủi gãy gọng, chổng càng.
Chừng nửa giờ sau, công việc kiểm tra tình trạng khả dụng của pháo binh chấm dứt, tôi cho lệnh thu quân, người nào về vị trí của người nấy.
Tôi cùng Thượng sĩ Lạc đi một vòng tuần tra các vọng gác, rồi quay về lều. Tôi vừa ngồi trên võng, chưa kịp cởi giầy thì, một đại úy Hoa Kỳ có hai binh sĩ Mỹ hộ tống đã hăm hở tiến tới đòi gặp mặt.
Ông đại úy này là sĩ quan an ninh phòng thủ của pháo đội Mỹ. Ông ta nghi rằng Việt-Cộng lùa voi đi trước, sau đó chúng sẽ theo chân voi, tấn công ta.Ông ta đã tới từng lều ra lệnh cho binh sĩ dưới quyền tôi trở lại tuyến phòng thủ ngoài rào kẽm gai của pháo đội. Chưa có lệnh của tôi, anh em Biệt Ðộng Quân chưa nhúc nhích. Do đó, ông ta phải đi tìm tôi để điều đình.
Ông ta yêu cầu tôi cho quân ra vị trí phòng thủ, và duy trì tình trạng báo động cho tới khi trời sáng. Tôi từ chối yêu cầu này.
Thấy vậy, ông ta liền nổi giận la hét om sòm và dọa sẽ tường trình việc này lên Bộ Tư Lệnh Task Force South để thượng cấp khiển phạt tôi. Tôi ôn tồn giải thích cho ông Mỹ này biết rằng, đường đàn voi vừa đi qua là một con dốc trơn trượt sau cơn mưa. Ngay đầu dốc tôi cũng vừa đặt thêm một vọng gác. Nếu Việt-Cộng tiến quân theo đường đó sẽ bị lính gác phát hiện ngay, và chúng ta có dư thời gian để vào vị trí chống trả. Vả lại, đêm nay thời tiết quá lạnh, nếu bắt binh sĩ dưới quyền phải ngâm mình dưới hố cá nhân đầy nước từ nửa đêm tới khi trời sáng sẽ khiến họ nhiễm bịnh. Ngoài ra, có dấu hiệu gì báo cho ta biết chắc chắn rằng địch sẽ tới đâu? Tôi quả quyết với ông đại úy Mỹ rằng, chẳng có thằng Việt-Cộng nào đi theo đàn voi này. Vì đây là một đàn voi rừng, voi dại, không phải voi nhà.
Tôi móc túi lấy gói thuốc lá Lucky, mời ông đại úy; ông ta gạt tay từ chối. Sau khi tự mồi cho mình một điếu, tôi thân mật vỗ vai ông sĩ quan Ðồng Minh, nhỏ nhẹ,
– Này ông bạn ơi! Nhiệm kỳ phục vụ tại Việt-Nam của bạn chỉ kéo dài sáu tháng là cùng. Nếu bạn có thức trắng vài ba đêm cũng chẳng ảnh hưởng gì. Còn chúng tôi thì khác. Chúng tôi đã chiến đấu mười năm, và sẽ còn phải chiến đấu thêm mười, hai mươi năm nữa.Vì thế, tôi phải tiết kiệm mồ hôi, xương máu, sức khỏe của binh sĩ dưới quyền tôi. Thôi bạn về ngủ đi! Chúc bạn ngủ ngon! Hẹn gặp lại.
Nào ngờ, cử chỉ thân thiện của tôi chỉ làm ông sĩ quan Mỹ giận dữ thêm, ông ta quát vào mặt tôi:
(Còn tiếp)