Menu Close

Chiếc xích đu

“Nhiều người sẽ đến rồi đi trong đời. Thế nhưng chỉ những người bạn chân thật mới để lại những dấu chân trong tâm hồn bạn.” Vâng, đúng như lời Eleanor Roosevelt nói, bạn bè là những gì tốt đẹp ta may mắn gặp được trên đường đời. Nó đem đến cho chúng ta nhiều an ủi và khích lệ. Như tình bạn của ba cô gái trong câu chuyện sau đây. NS

Meg, Katie và tôi đang ngồi trên chiếc xích đu trước vòm cổng nhà Meg. Vì Katie là đứa chân dài hơn hết thảy nên nó có nhiệm vụ giữ cho chiếc xích đu luôn chuyển động tới lui bằng cách thỉnh thoảng dùng chân đẩy nhẹ một cái. Hôm nay, cuộc vui của chúng tôi hơi rời rạc, thiếu sự hào hứng mọi khi. Katie bị phân tâm vì việc mổ tim của Meg trong hai ngày nữa.

“Bác sĩ bảo đây là thời gian tốt nhất để mổ,” Meg giải thích. “Mình đã đủ lớn rồi, và mình khỏe, họ không muốn chờ đợi lâu thêm nữa. Những cái thành của động mạch chủ trong người mình đang ngày một yếu dần đi.”

Katie và tôi yên lặng lắng nghe. Chúng tôi đều biết rằng sẽ có một ngày Meg phải mổ tim, nhưng chúng tôi không ngờ là nó xảy ra trong mùa hè này. Chúng tôi hiện đang vui thú với nhau biết bao.

Thật ra cả Katie và tôi đều biết có cái gì khác thường ở Meg. Nó thường than mắt của nó ngày một lồi ra và cặp kiếng thì ngày một dày cộm. Chúng tôi thường trêu Meg về hàm răng hơi hô của nó, nhưng không bao giờ chúng tôi nói gì về chứng đau tim của bạn mình. Gia đình của Meg đều biết rằng một ngày kia Meg sẽ phải mổ tim và nay ngày ấy đã đến.

chiec-xich-du
Thắm Nguyễn

Ngày hôm sau Meg và mẹ đi mua sắm, cho nên mãi tới chiều chúng tôi mới gặp bạn. Cả ba đứa ngồi trên cái ghế xích đu trước nhà, mỗi đứa chìm trong ý nghĩ riêng của mình. Khi ba Meg gọi Meg vào, tôi ôm bạn thật chặt và nói: “Mình sẽ cầu nguyện cho Meg.”

“Cám ơn bạn,” Nó trả lời với một nụ cười. “Nhớ cầu nguyện cho các bác sĩ nữa.” Tất cả chúng tôi cười rộ, ý tưởng của Meg đã làm giảm sự căng thẳng.

Ðêm hôm ấy tôi ngủ không được. Do đó, sáng hôm sau tôi dậy muộn. Tôi đi ra ngoài thở không khí trong lành và nhìn xuống dãy nhà dẫn tới nhà Meg. Tôi trông thấy cha mẹ Meg vòng tay ôm nhau.

Họ dậy sớm, tôi nghĩ. Tôi đi vào nhà thì chuông điện thoại reo. Katie gọi.

“Teresa ơi, mình có một tin kinh khủng.”

Tôi nghe Katie khóc. Trái tim tôi chùng xuống.

“Meg chết rồi,” Katie nói. “Khi bác sĩ đụng tới động mạch chủ trong người Meg thì nó đã quá yếu và tự tan ra. Nó chết ngay trên bàn mổ.”

Tôi bị xúc động mạnh. “Katie, mình sẽ nói chuyện sau.” Tôi nói, và gác điện thoại. Khi đi về phòng, tôi gặp mẹ tôi trên lối đi.

“Có tin gì về Meg không?”

Tôi lắc đầu, vẫn còn quá xúc động không nói được. Tôi không muốn tin vào điều đó. Tôi đóng cửa phòng lại và nằm vật xuống giường.

Không thể nào như thế được. Meg không thể chết. Katie nghe sai.  Một đứa con gái nào chứ không phải Meg. Meg sẽ gọi và nói cho mình biết mọi việc đều ổn hết.

Thời giờ trôi qua. Dần dần tôi cũng hiểu Katie nói đúng. Nhưng tôi không thể nào chấp nhận sự thật. Tôi nghe mẹ Katie gọi mẹ tôi để cho bà biết tin. Khi mẹ tôi gõ cửa, tôi bảo bà đi đi. “Con muốn ở một mình,” tôi van xin bà.

Trên đường tới nhà quàn, tôi tiếp tục nhủ thầm mình rằng Meg không sao mà. Nhưng khi tôi bước vào bên trong với cha mẹ tôi và thấy Meg nằm đó thì sự thật hiện rõ. Bạn của tôi đã chết. Tôi bước tới quan tài và nhìn khuôn mặt bình an của Meg. Có vẻ như Meg sẽ ngồi dậy và hỏi tại sao mọi người buồn vậy. Nhưng không, Meg đã chết thật rồi.

Tôi khóc những giọt lệ nóng, tức giận. Tôi không hiểu làm sao Meg lại có thể chết. Thế giới này đầy những người xấu xa. Tại sao Chúa không bắt một người trong số đó mà lại bắt người dễ thương nhất, tốt lành nhất.

Chúa không trả lời tôi. Trong tang lễ, vị mục sư đọc John 3:16. “Vì Cha yêu thế giới này nên Người đã cho xuống trần đứa con duy nhất của Người, vậy ai tin ở Người sẽ không bao giờ mất đi mà sẽ có đời sống vĩnh cửu.”

Một buổi chiều nhiều tuần lễ sau, Katie và tôi đang đi thì bỗng thấy mình đang hướng về phía vòm cổng nhà Meg. Chúng tôi ngồi xuống cái xích đu, cảm thấy chỗ ngồi giữa hai đứa trống vắng.

“Mình nhớ Meg,” Katie nói khi nó đẩy chiếc xích đu.

“Mình cũng vậy,” tôi trả lời đặt bàn tay lên chỗ ngồi trống. “Nhưng bạn biết đấy,” tôi nói với một nụ cười. “Ở trên thiên đường, Meg sẽ không có răng hô đâu.”

Katie cười, “Bồ nói đúng, và nó sẽ không còn than phiền về đôi mắt của nó và cặp kính dày cộm.”

“Cũng sẽ không có bệnh tim nữa…”

Bỗng có tiếng mở cửa và mẹ của Meg xuất hiện. “Bác nghe có tiếng người nói. Bác vẫn mong rằng các con ghé lại chơi. Các con cứ ngồi trên chiếc xích đu này. Ba của Meg dựng nó ở đây là để cho ba người. Bác không thích thấy nó để trống.”

“Chúng con sẽ trở lại, bác ơi.” Chúng tôi hứa.

“Sẽ không có đau tim nữa nha,” Katie nói khi chiếc xích đu của chúng tôi tiếp tục đưa.

Chúng tôi ngồi xích lại gần nhau, lấp chỗ trống nãy giờ ngăn cách chúng tôi.. “Bồ có nghĩ rằng trên thiên đường cũng có xích đu không?” Katie hỏi.

“Chắc chắn là có rồi,” tôi nói một cách chắc nịch. “Và mình nghĩ rằng Meg sẽ dành chỗ sẵn cho mình để một mai mình lên đó.

NS theo Teresa Cleary