
Quân Trấn Ðà -Lạt nằm trong một khách sạn nhìn ra Hồ Xuân Hương. Chuẩn tướng Tư Lệnh Task Force South hiện nay kiêm nhiệm luôn chức vụ Quân Trấn Trưởng Ðà-Lạt.
Một ông Trung úy Quân Cảnh đã tiếp tôi tại phòng trực nơi tầng dưới cùng.
Tôi hỏi ông trung úy rằng, Quân Cảnh có giam chiếc Jeep 103472 Biệt Ðộng Quân của tôi không?
Ông ta chỉ tay về phía bãi đậu xe, cả chục chiếc Jeep đậu sát nhau. Chiếc 103472 mui trần của tôi nằm phía ngoài cùng.Trên xe còn khẩu M 16 của tài xế cùng cái máy PRC25.
– Xe của Trung úy chở máy móc, vũ khí mà đậu khơi khơi giữa chợ, không có người canh gác, nên chúng tôi kéo về giam ở đây.
– Trung úy cho tôi biết thủ tục nhận lại xe ra làm sao được không?
– Thường thì những xe bị kéo về đây chỉ được trả về đơn vị sau một tuần lễ. Chủ xe bị ký củ, tài xế bị nhốt trong phòng kỷ luật, chỉ được tha vào ngày xe được thả ra. Thiếu tướng Quân Trấn Trưởng ra lệnh, cứ xe nào đậu trong phố không có tài xế, hoặc xe chở đàn bà trên ghế trưởng xa là tóm ngay. Chiếc Jeep đậu kế xe của Trung úy là xe của Trung tá Ry, Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu Tuyên Ðức đó! Xe của Trung tá Ry bị bắt lúc đang chở bà Ry đi chợ; bà Ry ngồi trên ghế trưởng xa.
Ông Ry thì tôi biết, vì ông ấy là thầy tôi. Năm tôi còn học trong trường thì ông Ry là Thiếu tá Trưởng Khoa Công Binh. Thiếu tá Ry đã dạy Khóa 20 chúng tôi kỹ thuật bắc cầu phao, lái xuồng đổ bộ, cách gài bẫy, gài mìn, tháo mìn, phá cống, phá cầu, chế tạo liều thuốc lõm chống chiến xa, phá lô cốt, hạ cây rừng, phá nòng đại bác…
Tôi nhủ lòng, để hôm nào rảnh, hành quân về nghỉ, tôi sẽ ghé thăm ông.
Tôi hỏi,
– Thằng tài xế của tôi đã tới đây, nó có gặp Trung úy không vậy?
– Anh ta đang bị nhốt trong phòng kỷ luật.
– Tôi muốn gặp nó. Anh cho tôi gặp nó đi.
Viên Trung úy dẫn tôi sang phòng bên. Phòng này là cái kho cũ dùng để chứa hàng và có cửa bằng song sắt. Khoảng mười cậu tài xế đang bị cấm túc ở đây. Giày của họ bị rút hết dây. Quân Cảnh sợ họ quẫn trí, dùng dây giày thắt cổ tự tử, nên bắt họ đi giày không dây. Thằng đồ đệ ruột Châu Minh Ðạt của tôi đang ngồi trò chuyện vui vẻ cùng những anh bạn “giày không dây” mới quen của nó. Thấy tôi, Ðạt vội chõ mồm qua song sắt:
– Ông thầy ơi! Em vừa vào tiệm mua được hai bao Lucky cho ông thầy, quay ra thì xe đã bị tụi nó kéo đi mất rồi. Tụi nó tống em vào đây để chờ ông thầy tới lãnh mới thả ra. Mấy thằng Quân Cảnh Ðà-Lạt này phách lối quá, để hôm nào tụi em lừa lừa, lụi cho tụi nó vài dao, cho biết đời.
Tôi nạt,
– Im đi!
Rồi quay sang anh Trung úy Quân Cảnh tôi nói,
– Anh trả dây giày cho nó. Tôi lãnh nó ra.
– Không có lệnh của Thiếu tướng, tôi không thả anh ta ra được.
– Anh dẫn tôi lên gặp Chuẩn tướng.
Hình như lúc đó mặt tôi “ngầu” lắm hay sao mà khiến anh Quân Cảnh cuống quít,
– Ðể tôi lên trình.
Anh ta chạy nhanh lên lầu rồi xuống ngay,
– Thiếu tướng nói, lính gì thì lính, vi phạm kỷ luật thì thọ phạt đủ ngày mới thả.
– Vậy thì anh lên trình với Chuẩn tướng rằng nếu không thả xe, thả người, ngày mai tôi sẽ không đi hành quân nữa. Tôi sẽ dẫn đại đội tới đây, vào phòng kỷ luật ngồi cho đủ một tuần lễ mới ra.
Trên lầu có tiếng người vọng xuống,
– Dưới đó có chuyện gì mà ồn ào thế?
– Thưa Thiếu tướng! Có một anh Trung úy Biệt Ðộng Quân đang làm loạn ở dưới này. Anh ta cứ đòi gặp mặt Thiếu tướng, cứ đòi lãnh tài xế và xe ra.
– Cho nó lên đây!
Tôi vừa dợm chân định chạy lên gác, thì anh Quân Cảnh níu tay,
– Anh để lại khẩu Colt trên giá súng kia, đi lên người không. Có lệnh cấm mang vũ khí vào phòng Tư Lệnh.
Tôi vứt cái dây ba chạc xuống đầu cầu thang rồi phóng lên lầu.
Vừa ló đầu vào phòng tôi đã nghe “Niên Trưởng” cười hì hì,
– Pháp bất vị thân! Ngày mai chú mi tới Quân Trấn thọ phạt một tuần. Hết một tuần mới được tha.
Tôi tưởng niên trưởng nói thật, nên cũng lễ phép trả lời,
– Tuân lệnh!
Rồi tôi nhìn ông, thắc mắc,
– Mai đến phiên tôi nhảy đầu. Nếu không có tôi thì ai thay tôi chỉ huy hai Ðại Ðội 1 và 3?
– Ngồi xuống đi!
Tôi ngồi xuống cái ghế đặt trước bàn của niên trưởng Ân.
Niên trưởng của tôi chìa cho tôi xem một tờ giấy đánh máy, một bản viết bằng Anh Ngữ. Ðó là danh sách đề nghị ân thưởng huy chương Hoa-Kỳ cho những chiến sĩ hữu công trong chiến dịch, trên đó, tên tôi đứng đầu.
Niên trưởng của tôi gõ gõ cán bút xuống mặt bàn, rồi nhìn tôi, thật ôn tồn,
– Sĩ Quan Võ-Bị, cũng như Thiếu Sinh Quân, là những người đã chấp nhận một đời theo nghề lính. Ðã là một người lính nhà nghề, thì trước hết phải yêu nghề. Ðã là một sĩ quan thì đương nhiên là một cấp chỉ huy. Một cấp chỉ huy hoàn hảo phải hội đủ những đức tính cần thiết của một người chỉ huy đó là: Can trường, thao lược, liêm khiết, và nhân ái. Những đức tính can trường, thao lược, và liêm khiết là tự mình, do mình.Còn đức nhân ái lại liên hệ tới người khác, nhất là với thuộc cấp. Nhớ đừng bao giờ bỏ rơi thuộc cấp. Ðừng bao giờ bỏ rơi anh em. Nếu thuộc cấp phạm lỗi, hãy tha thứ cho họ, một lần, hai lần, thế nào họ cũng đổi thay.Quân đội là một tập thể quy tụ hàng trăm thành phần. Do đó, có lúc mình phải duy trì kỷ cương bằng kỷ luật và mệnh lệnh. Nhưng cũng có lúc chúng ta phải chỉ huy bằng tình thương từ trái tim. Cái khó là làm sao biết được, lúc nào nên chỉ huy bằng khối óc, lúc nào nên chỉ huy bằng trái tim. Ông liên đoàn trưởng của chú đã kể cho anh nghe đầy đủ về lý lịch và thành tích của chú. Rồi qua những lần tiếp xúc, anh cũng biết tính khí và khả năng của chú rồi. Ðừng nản lòng, hãy cố gắng lên, vàng ròng không ngại lửa. Chú có hiểu ý anh không?

– Vâng! Tôi hiểu ý niên trưởng rồi. Cám ơn niên trưởng về những lời khuyên vừa rồi.
Thì ra ông niên trưởng này đã được báo biết chuyện tôi bị lao đao như thế nào sau Vụ Phật Giáo Miền Trung năm 1966. Ông đã biết chuyện tôi bị bóc lon, bị giáng cấp xuống trung sĩ, rồi được phục hồi, nhưng vẫn bị treo lon vì tội đi theo Tướng Nguyễn Chánh Thi làm đảo chánh…
Hôm đó tôi còn được ngồi nghe ông kể vài chuyện liên quan tới đời lính của ông. Kỷ niệm thời Thiếu Sinh Quân, kỷ niệm thời Nhảy Dù, mỗi chuyện ông kể, là một bài học cho tôi nhớ mà áp dụng sau này.
Chiều đó, anh Trung úy Quân Cảnh trố mắt, ngạc nhiên khi thấy ông Tướng Quân Trấn Trưởng đích thân tiễn chân một Trung úy cắc ké của Biệt Ðộng Quân ra tận xe. Rồi ông Tướng còn đứng lặng nhìn theo bóng chiếc xe mang số 103472 càng lúc càng xa dần.
Ngày hôm sau…
Chúng tôi chạm địch trong rừng thông cách thác Prenn tám cây số về hướng Tây. Ðịch hai chết, ta một bị thương là Binh nhứt Nguyễn Văn Phong thuộc Trung Ðội 3.
Sương mù dày quá, trực thăng không tìm ra đám khói vàng đánh dấu bãi đáp để bốc thương binh. Chúng tôi đành leo lên cao điểm 1710 để qua đêm.
Người lính bị thương nằm trên võng, bên đống lửa. Viên đạn súng trường bá đỏ bắn trúng đùi, nằm trong bắp thịt vừa chạm xương. Một ống quần của anh đã bị quân y xẻ dọc để tiện băng bó. Y tá đại đội đã làm “ga-rô” nơi phía trên của vết thương. Tôi thấy đùi anh như đang sưng tấy lên.
Tôi nhẹ lay đầu võng của Phong,
– Chú thấy trong người ra sao?
– Em khoẻ mà! Thái Sơn đừng lo.
– Chú cố gắng chịu đau qua đêm. Sáng mai anh xin trực thăng đưa chú về Ðà-Lạt.
– Khuya rồi! Ông thầy đi ngủ đi! Lấy sức. Mai ông thầy còn phải lội nữa mà!
Tôi đưa ca cà phê nóng cho Phong,
– Chú uống cho khỏe.
– Cám ơn Thái Sơn!
Sau một hớp cà phê, Phong bắt đầu tâm sự,
– Ngày Mùng Một Tết, Trung úy bị thương nặng, tụi em lo quá! Tụi em chưa kịp vào nhà thương thăm trung úy, thì đại đội đã bị đưa lên Ðà-Lạt đánh nhau. Tụi em chờ mãi không thấy trung úy trở về. Có người còn đưa tin rằng trung úy đã ra loại 2, không trở lại đơn vị tác chiến nữa. Tới khi ông Trung úy Lương về chỉ huy đại đội thì tụi em tin chắc là trung úy đã đi luôn rồi. Tụi em buồn quá, bàn nhau sẽ leo xe đò về Sài-Gòn đào ngũ.
Hôm tiểu đoàn chấm dứt hành quân vùng Ðơn Dương rút về nghỉ trong đồn điền Michelin, em với thằng Ðạt đã thay “civil”, chui lên núp dưới sàn xe be chở cây. Dự trù tới Phương-Lâm thì nhảy xuống, chuyển sang xe Lamb về Hố Nai. Nhà bác em ở Hố-Nai. Ðâu ngờ, lúc xe be đi ngang cổng trường Nông Lâm Súc, Blao, em thấy trung úy đang đứng nói chuyện với đại úy tiểu đoàn trưởng, em nghĩ trung úy đã xuất viện, về lại đại đội, nên em và Ðạt nhảy xuống xe, bỏ ý đào ngũ.
Phong chợt cười khì,
– Nếu hôm đó em không nhìn thấy trung úy thì bây giờ em đã ở nhà, lấy tên cũ, khai sinh cũ, đi học lại lâu rồi, đâu có bị thương gãy chân nằm đây!
Phong bóp bóp bàn tay tôi mấy cái, rồi nghẹn ngào,
– Trung úy có nhớ ngày đại đội mình leo Ngô-Sơn không? Ngày đó trung úy giúp em, vác thùng đạn đại liên 30 và khẩu Garant lên núi…
– Ừ! Nhớ!…
Ngày đó…
Có một chú bé mặc rằn ri ngồi khóc bên tảng đá lớn nơi triền núi.
Ngọn núi vừa cao, vừa dốc.
Ông đại đội trưởng leo tới chỗ cậu bé,
– Sao ngồi khóc đây?
– Trình trung úy em mệt lắm “gồi”! Thùng đạn nặng quá, em vác “hổng” nổi.
– Rồi! Ðưa cây Garant đây! Ðưa thùng đạn đây! Chút nữa lên tới đỉnh, nhớ đến ban chỉ huy đại đội để nhận lại.
Khẩu Garant cao gần bằng thằng bé. Còn thùng đạn này là một trong bốn thùng đạn tăng cường cho khẩu đội đại liên, được giao cho trung đội trực, đang di chuyển cùng ban chỉ huy đại đội.
Tôi đã quàng vai khẩu Garant M1, xách thêm thùng đạn đại liên leo lên núi. Chú bé giờ đó chỉ còn cái ba lô nhẹ tênh trên vai. Nhưng chú vẫn vừa đi, vừa khóc rấm rứt không thôi.
Khi cậu bé tới nhận lại súng đạn, tôi hỏi,
– Này nhỏ! Tên gì? Mấy tuổi rồi?
– Trình Trung úy, em là Nguyễn Ðăng Phong, em mười sáu. Em lấy khai sanh giả, mang tên Nguyễn Văn Phong, tăng hai tuổi, tình nguyện đăng lính Biệt Ðộng Quân.
Tôi biết và nhớ tên của nhỏ này từ ngày đó. Bây giờ nó đã cao lớn, mập mạnh hơn nhiều, so với ngày nó mới về đơn vị. Nó đã lên binh nhứt và có vẻ chững chạc lắm. Khi nói chuyện, nó cũng bỏ bớt những tiếng “gồi”, “hổng”, mà thay vào đó là “rồi”, “không”…
Tôi vỗ nhẹ lên vai Phong, mồi cho anh một điếu thuốc, rồi lên võng.
Nửa đêm, nghe tiếng rên, tôi lại chui vào lều y tá Ðức,
– Gì đó Ðức?
– Trình Trung úy. Vết thương làm độc. Thằng Phong đang lên cơn. Nó bị sốt mê man, ngất đi hoài.
Nghe tiếng tôi, Phong giơ tay,
– Trung úy cho em nhờ chút!
Tôi nhích lại đầu võng của Phong.
Phong đưa cho tôi cái bóp của anh,
– Ðây là giấy tờ và lá thư em mới viết hôm qua. Nếu em chết trước khi trực thăng tới. Em nhờ Trung úy gửi giùm cho tía má em.
– Ðừng nói gở! Gắng chút nữa trời sáng, có máy bay, vài phút là về tới Ðà-Lạt.
Phong ngước mặt nhìn tôi, dưới ánh lửa, tôi thấy nước mắt nó giàn giụa,
– Trung úy! Em thấy ngực nặng như chì, khó thở lắm rồi. Em không biết nói gì để tỏ lòng yêu quý của em đối với Trung úy. Trung úy… đừng quên em nhé!
– Ừ! Không quên! Anh không quên chú đâu…
Bên bếp lửa chập chùng, tôi ngồi bó gối nơi đầu võng của người thương binh đàn em. Ðêm dài như không muốn sáng. Lúc tỉnh, lúc mê, khi gà rừng eo óc gáy, Binh nhứt Nguyễn Văn Phong không tỉnh lại nữa.
Tôi cầm tay thằng em, tay nó đã lạnh giá.
Tôi vuốt mái tóc cho thằng em,
– Ừ! Không quên! Anh không quên chú đâu…
o O o
Tháng Chín ngậm ngùi…
Lại một cuộc hành quân chấm dứt, chúng tôi rời Buôn Ma-Nôi vào buổi chiều.
Pháo binh Hoa-Kỳ được cơ giới vận chuyển, còn đại đội tôi phải đi bằng chân. Tối mò chúng tôi mới tới làng Klong A bên Quốc lộ 20. Vì sân nhà nào cũng đầy phân trâu, phân bò, nên tôi đành đóng quân qua đêm trên một gò đất bên đường.Mười giờ sáng hôm sau bốn chiếc GMC tới đón chúng tôi về phi trường Liên-Khương, nằm ứng chiến.
Chiều hôm ấy Trung tá Sâm ghé thăm và báo cho tôi một tin không vui:
“Vợ chồng Anh Ðào vừa tử nạn trực thăng ở Ðức-Lập!”
Nghe tin này, tôi lặng người đi vài phút.
Tôi thấy hình như đôi mắt ông Sâm ướt lệ.
“Tội nghiệp anh Ân!” giọng ông hơi run.
Tôi biết ông Sâm và ông Ân có mối quan hệ gì đó với nhau. Bề ngoài họ là thượng cấp, thuộc cấp. Nhưng bên trong, họ là bạn cùng trang lứa, thân thiết lắm. Trung tá Sâm là một cấp chỉ huy rất đặc biệt, mười người dưới quyền thì chín người sợ ông và ghét ông. Tôi là người ngoại lệ, lúc nào cũng được ông mến thương và thân thiết, chẳng biết vì sao?
Bốn mươi năm sau chiến tranh, có lần trò chuyện bằng điện thoại với Trung tá Chung Thanh Tòng, người từng làm phụ tá cho Trung tá Sâm một thời, tôi nghe anh Tòng cười hì hì,
– Ông Sâm khó thấy mồ! Làm phó cho ông ấy mà tôi cũng sợ ổng chết luôn. Ông Sâm chỉ nể có mình chú, thương có mình chú. Có lẽ tại chú vừa giỏi, vừa đứng đắn.
Có lẽ Trung tá Sâm đã giới thiệu tôi với Tướng Ân, nên tôi được ông Tướng này để ý tới cũng nên?
Trong thời gian hành quân dưới quyền Task Force South, vài anh bạn cùng khóa của tôi vừa thấy bóng dáng Anh Ðào đàng xa đã lo tìm đường lủi. Có anh đang lái xe lạng lạng quanh Hồ Xuân Hương, ngửng mặt lên, phát giác ra có cái đầu húi cua trên hiên lầu 2 của Quân Trấn Ðà-Lạt thì lo mau mau vặn tay lái quẹo lên hướng Nha Ðịa Dư ngay. Có bạn đang hiên ngang, mũ giắt cầu vai, khoác tay đào dạo phố, bỗng thấy xe Quân Cảnh Sư Ðoàn 23 chạy trước, theo sau là chiếc Jeep với cái bảng đỏ một sao trắng, bèn giả đò cúi xuống cột lại dây giầy để giấu mặt.
Với Tướng Ân, rất có thể, sự ưu ái của ông dành cho tôi là một ngoại lệ. Còn với tôi thì, Tướng Trương Quang Ân mãi mãi là một người anh tuyệt vời.
Chính vì thế mà ngày đó, khi nghe tin Anh Ðào tử nạn đã có hai người khóc, đó là Trung tá Sâm và tôi.
VML- K20
Seattle tháng Tư năm 2017