Menu Close

Nốt thăng trầm (kỳ 3)

not-thang-tram1
Biệt Động Quân VNCH. nguồn: Wikiwand

Hồi ký 4 kỳ

Kỳ 3

Vì sợ tôi tiết lộ việc này cho con của cô biết, và sợ bị kết tội liên lụy với Việt-Cộng, nên cô Ngọc vội vàng dẫn con ra đi.

Một thời gian sau, vì bận bịu công việc, tôi cũng không bận tâm thêm chuyện nhà thầy Như, cô Ngọc.

Ðầu tháng Chín năm đó, Chuẩn tướng Trương Quang Ân, Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh tử nạn. Giữa Tháng Mười, đơn vị tôi về ở hẳn Pleiku, không còn trở lại Blao, Ðà-Lạt nữa.

Năm 1975 thua trận, tôi đi tù cải tạo.

Từ khi khôn lớn, vào đời, tôi chỉ chọn có một nghề, đó là nghề làm lính. Suốt thời gian 12 năm làm lính, tôi quanh quẩn sống trong rừng. Vốn liếng tay nghề của tôi chỉ có rừng.

Sau 13 năm tù cải tạo, được thả, tôi lạc loài trong thành phố Sài-Gòn. Tôi đã xoay xở nửa năm, mà không tìm ra nghề gì để sống một cách vững chắc. Cuối cùng, tôi đành tìm đường lên núi kiếm ăn.

Tôi quyết định lên Ðà-Lạt, vào núi Lap Bé Nord đào thiếc. Phong trào đào vàng, đào thiếc đang rầm rộ ở đấy. Thế là, đúng hai mươi năm sau ngày đại đội tôi từ giã Blao, nay hoàn cảnh bắt buộc, tôi đành miễn cưỡng quay về chốn xưa. Chiếc xe đò chở tôi rời Sài-Gòn từ sáng tinh mơ. Xế chiều xe mới tới Ðà-Lạt.

Tôi lên Ðà-Lạt, tá túc tại nhà đứa cháu gái gọi tôi bằng cậu. Nhà cháu tôi nằm bên Phường 8, cách Nguyên-Tử-Lực Cuộc một cái thung lũng. Tôi ở trên dốc, dưới dốc có một ông trung sĩ Cảnh Sát chế độ cũ đang làm nghề đào thiếc. Tôi mon men tới nhà ông ta để làm quen, và xin tháp tùng kiếm ăn.

Khi gặp ông cựu Cảnh Sát Việt-Nam Cộng-Hòa, tôi nói chuyện với ông ta bằng thứ tiếng Bắc một trăm phần trăm Hải-Dương. Ông ta tưởng tôi từ ngoài Bắc mới vào nên không thắc mắc gì nhiều, vui vẻ cho tôi theo ông vào vùng kiếm “xái”.

Ông Cảnh Sát này mới lấy vợ kế. Vợ cả của ông ta vừa chết. Vợ kế của ông chính là người em dâu của ông ta. Em trai ông Cảnh Sát là trung úy chế độ cũ, đã chết trong trại cải tạo. Ông Cảnh Sát không phải đi tù. Ông thương em dâu góa bụa, thương đàn cháu côi cút, nên vợ ông vừa chết là ông lấy bà em dâu làm vợ luôn. Sau một tuần lễ cộng tác với ông Cảnh Sát và thằng cháu, cũng là con riêng của vợ ông, chúng tôi bị “mo”. “Mo” tiếng Pháp là “mort”, có nghĩa là chết, là thất bại.

not-thang-tram4
Một cảnh đào vàng – nguồn Bizlive

Tôi đành giã từ Ðà-Lạt tụt xuống Ðức-Trọng, mò vào K3 đào vàng.

Hì hục gần mười ngày, “mo” vẫn hoàn “mo”, đến nỗi tôi không còn tiền để đi một chuyến xe thồ về nhà người chị họ ở Ðức-Trọng. Có một điều đáng nói là, dân đi đào vàng ở đây, nếu chịu giao thiệp rộng một chút, rất khó bị chết đói. Ngày nào cũng có những đám tiệc cúng tổ. Cứ xong một giếng, thu hoạch vàng xong, các toán đều trích ra một số vàng để đãi đằng trước khi chia phần. Tôi ở đây mới có hơn tuần lễ mà bà con đã nhẵn mặt, mời ăn nhậu tưng bừng, không ngày nào bị đói.

Rồi một sớm mai có chiếc xe thồ bị tụt xuống hố. Tôi nhanh nhẩu giúp anh chủ xe một tay, kéo chiếc xe lên. Anh ta và tôi đều là dân Bắc-Kỳ Di Cư. Hỏi ra, anh ấy ở cách nhà bà chị tôi có vài khu vườn. Thế là anh chàng đồng ý chở tôi về tới nhà bà chị tôi rồi mới lấy tiền.

Tôi không phải là người khách độc nhất của một chuyến thồ. Tôi phải chờ hai người khách nữa cho đủ số ba người cho một cuốc xe. Trong thời gian chờ khách, tôi và anh chủ xe ngồi tán gẫu. Hóa ra anh ta đang học năm cuối cùng Quốc-Gia-Hành-Chánh thì Việt-Nam Cộng-Hòa sụp đổ. Tới lúc bấy giờ tôi mới thổ lộ cho anh ta biết tôi là một cựu Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Biệt Ðộng Quân Việt-Nam Cộng-Hòa vừa mới được thả ra khỏi trại tù cải tạo. Nghe vậy, anh ta kéo tay tôi, bắt tôi leo lên xe, không thèm chờ rước thêm khách nữa. Anh ta sẵn sàng chở giúp tôi về nhà không lấy tiền!

Chúng tôi vừa ra khỏi K3 chừng hai cây số thì nghe phía trước mặt, trong rừng bên đường có tiếng kêu la:

“Lạy hai anh tha cho em…”

Chú Lượng, chủ xe thồ ngừng xe quan sát.

Trong rừng thưa bên đường, hai thanh niên mặc đồ bộ đội đang dùng hai khúc cây phang cật lực vào đầu một anh xe thồ để cướp cái xe hiệu Kamaz Liên-Xô.

Bị hai khúc củi đập tới tấp lên đầu, lên vai, nhưng anh chàng xe thồ vẫn không chịu buông cái xe ra. Buông tay ra, là mất xe! Thà chết, chứ không bỏ của!

Vừa van lạy, vừa chửi rủa, anh xe thồ cứ lăn vào ôm cứng lấy cái Kamaz, dai như đỉa.

Có lẽ nạn nhân đã thấy chúng tôi, nên anh ta la lớn,

– Bớ người ta! Ăn cướp! Ăn cướp giết tôi cướp xe! Cứu tôi với bà con ơi!

Chú Lượng nói nhỏ vào tai tôi,

– Tụi bộ đội nó chơi bạo lắm. Mình can thiệp vào, nó chơi mình luôn. Hay là ta quay lại gọi thêm người phụ giúp. Anh tính sao?

Tôi nghĩ, nếu quay trở lại, chưa chắc đã có ai vui lòng đi theo giúp. Mà dù cho có người đi theo, thì khi tới nơi, anh chủ xe thồ có lẽ đã chết mất rồi!

Chợt nghĩ ra một kế, tôi vừa nháy mắt ra dấu cho Lượng, vừa hét lớn,

– Ðưa khẩu súng cho tao! Tao bắn vỡ óc hai thằng ăn cướp này!

Lượng làm bộ chần chừ. Rồi anh cũng gân cổ nói cho to,

– Anh bắn thì anh chịu trách nhiệm nghe! Tôi chỉ làm chứng thôi đó!

Tôi hét lớn,

– Á!… Á!… Hai thằng chó này tới số rồi! Chết nghe con! Á!…Á!…

Tôi và Lượng vừa quát tháo, vừa từ từ bước tới. Chú Lượng làm bộ lục lọi cái xách tay chú đeo ngang hông để tìm vũ khí.

Hai thằng ăn cướp thấy hai chúng tôi hùng dũng quá, chúng nó sợ bị bắn chết, nên vứt hai khúc củi, ù té chạy bán sống, bán chết xuống chân đồi.

Anh chủ xe bị cướp quỳ xuống đất vái lấy vái để.

– Em xin quỳ lạy tạ ơn cứu mạng của hai ông. Suốt đời em ghi lòng tạc dạ công lao của hai ông.

Chú Lượng thực tế hơn,

– Ê bồ! Ơn với oán cái con khỉ khô. Một chầu nhậu là xong hết.

Sau đó hai chiếc xe thồ phóng vèo vèo trực chỉ hướng chợ Ðức-Trọng.

Tới chợ, anh Nam, cựu Nghĩa Quân Việt-Nam Cộng-Hòa, chủ xe bị cướp, trịnh trọng mời tôi và Lượng vào quán ăn của một bà chủ người Tàu.

Chú Nam kêu không biết bao nhiêu món, gồm đủ vịt, gà, bò, heo, tôm, cá để thiết đãi chúng tôi.

Trong lúc tôi đang ngất ngưởng, ngà ngà, thì ngoài sân chợ bỗng nhốn nháo hẳn lên, không biết vì lý do gì. Thấy lạ, tôi bước ra cửa đảo mắt nhìn.

Một chiếc xe con của bộ đội từ hướng Liên-Khương chạy xuống đậu sát hàng hiên một tiệm trà. Nơi đó, một người hành khất già đang nằm ngủ, ngáy khò khò.

Một thượng úy công an và một công an viên bước xuống. Viên thượng úy cười hì hì:

“Thôi về đi thủ trưởng!”

Hai tay công an áp vào khiêng ông cụ lên, đặt trên ghế sau. Họ cũng cuốn gói đồ lề của ông cụ gồm một cái mũ lưỡi trai, một cái nón mê, và một cây dao quắm bỏ vào thùng xe, rồi trở đầu xe chạy đi.

Bà chủ tiệm trà chõ miệng ra cửa, nhiếc một câu,

– Giầu bỏ bạn, sang bỏ vợ. Cho đáng đời cái đồ mê gái!

Tôi trở lại bàn thì chú Lượng lắc đầu,

– Ôi! Ðể ý làm gì tới cái thằng khùng này. Thứ gì ngu như chó! Quyền cao chức trọng không muốn, muốn đi ăn xin.

– Chú biết lý lịch của ông ăn mày này à?

– Ở đây ai mà không biết tay này? Ngày xưa y là con hùm xám, hét ra lửa đấy. Nhưng y ỷ thần, ỷ thế, hãm hiếp một cô nhân viên dưới quyền, nên mất chức. Ðến khi vợ lão chết, lão thành khùng luôn.

– Công an vừa hốt ông ta đi, chắc là nhốt vào nhà thương điên?

– Bắt với nhốt cái con tiều! Cả chục năm nay tên đó cứ lang bang hết chợ Ðức-Trọng, đến chợ Tùng-Nghĩa, chửi bới, khóc lóc om sòm, rồi lăn quay ra ngáy. Hôm nào hên, có mấy thằng học trò cũ hốt về nhà cho ăn ngủ, còn không thì cứ ngủ bờ, ngủ bụi thôi.

– Chắc cái xe công an vừa rồi là của người quen ông cụ?

– Tay này ngày xưa đi theo hầu, làm đồ đệ của lão già đó. Nay anh ta lên tới thượng úy đồn trưởng.

– Thế thì gia đình vợ con ông ta ở đâu?

– Nhà lão ở trên Phil-Nôm, nhưng từ khi vợ lão chết, lão không bén mảng về nhà nữa.

– Chú Lượng có vẻ rành gốc gác ông điên này quá?

– Thực ra, em cũng chỉ nghe đồn thôi.

Anh Nam châm thêm rượu đế vào ly của tôi rồi hối,

– Nhậu tiếp đi đại ca! Chuyện thằng già dịch ấy, nói tới mai chưa hết. Ai đời? Con gái người ta mới mười bảy, mười tám mà lão dám đè ra hiếp công khai trong văn phòng. Gớm thiệt!

– Chắc chú Nam rành về ông già này hơn chú Lượng?

– Thì có ai tận mắt chứng kiến những gì lão ác ôn này gây ra đâu? Gia đình lão ở đây từ cuối 1975, nhưng lão làm việc trên Tỉnh Ðội, lâu lâu mới ghé về nhà. Em nghe người ta nói lại, thời chống Mỹ, lão là Huyện Ðội Trưởng hay Tỉnh Ðội Trưởng gì đó dưới Blao, công lao ghê gớm lắm. Sau khi tiếp thu Ðà-Lạt, lão làm lớn lắm. Ðùng một cái, cuối 1977 lão bị mất chức về nằm bẹp trong nhà. Sau đó vợ lão tự tử, lão hóa khùng, đi lang bang cả chục năm nay.

Chúng tôi đánh chén xong thì trời xế trưa. Anh Nam xin phép về nhà lo thuốc thang chữa chấn thương đầu, cổ. Tôi và chú Lượng cũng chia tay.

Chuyện “người điên ở chợ” tôi còn được nghe nhiều người thuật lại, mỗi người nói mỗi khác. Năm 2003, ở Hoa-Kỳ có người bạn làm cùng sở với tôi kể rằng, năm 1980 khi đi đào đá quý ở Tân-Bùi, Blao, anh ta tận mắt chứng kiến cảnh một tên cán bộ cấp cao của Việt-Cộng bị điên, đầu đội cái nón mê, tay xách con dao quắm, suốt ngày đi lang thang, nói năng lảm nhảm, chửi bới om sòm ở chợ Tân-Bùi. Nghe đâu tay cán bộ này giàu sụ, có cô bồ nhí xinh như đào xi nê. Một hôm, cô bé đem cầm, bán hết giấy tờ sở hữu ruộng vườn, xe cộ của ông thủ trưởng, đồng thời thay mặt ông, hốt sạch cả chục chân hụi lớn, hụi nhỏ, rồi ôm tiền của, cùng anh kép trẻ dông đi mất biệt. Mất của, lại thất tình, ông thủ trưởng già hóa rồ, hóa dại, đội cái nón mê, ôm con dao quắm đi truy lùng, truy sát kẻ bạc tình. Hình như nhà anh chàng trẻ tuổi, tình địch của lão già thủ trưởng Việt-Cộng ở Tân-Bùi thì phải?

Nhà chị tôi ở cách chợ Ðức-Trọng không xa lắm. Tôi quyết định nghỉ ngơi vài ngày rồi mới xoay xở tiếp. Hai hôm sau tôi tìm được một chân giữ lô (cơ xưởng khai thác gỗ  rừng)  trên Prenn.

Làm việc này tuy nhàn nhã nhưng nguy hiểm quá! Một mình nằm trong căn chòi lá giữa rừng không tấc sắt trong tay. Xế chiều, một xe bộ đội ghé đít vào khuân đi vài tấm ván xẻ. Nửa đêm, một xe bộ đội ghé đít vào khuân đi vài khúc bằng lăng. Người gác lô (là tôi đây) hỏi:

“Các ông có giấy ủy quyền chở gỗ đi không?” thì khách vỗ bành bạch vào cái bao K54 bên hông:

“Bộ nhà anh mù, không nhìn thấy cái giấy ủy quyền này hay sao mà còn hỏi?”

Hóa ra lô này chứa gỗ của bọn khai thác lậu. Bộ đội chỉ cần hù một câu là có thể chở đi một xe tỉnh bơ. Tuần sau tôi bỏ việc.

Tôi trở về Sài-Gòn phụ giúp một anh bạn đi bán quần áo cũ (còn gọi là đồ SIDA) một vài lần, cũng chẳng thấy khá.

Tôi lò mò tới nhà ông Trung tá Huỳnh Văn Lộc, cựu Liên đoàn trưởng Liên đoàn 25 Biệt Ðộng Quân để hỏi cách đi buôn thuốc Tây. Ông anh chỉ vẽ đường đi, nước bước, tận tình hết mình. Chuyến ra quân đầu tiên buôn thuốc Tây, chưa đi khỏi Tân-Cảng tôi đã bị công an túm. Mất toi cả chỉ vàng tiền vốn.

Bí quá, tôi lại lên rừng.

Kỳ này thì hên. Ông anh rể vừa thấy mặt tôi đã reo lên,

– Cậu lên vừa đúng lúc. Vựa cà phê nhà chị Phú Phil-Nôm đang cần chân đốc công, lương hậu, cậu có nhận không?

– Chơi liền! Buồn ngủ mà gặp chiếu manh thì còn gì bằng?

Hôm sau ông anh rể tôi chở tôi lên vựa cà phê nhận việc.

Vựa cà phê chị Phú ở ngay con dốc giữa ngã ba Quốc lộ 20 và ngã rẽ về Ðơn-Dương. Ðất đai hai bên đường của khu vực này được chia ra thành nhiều lô bằng nhau để cấp phát cho gia đình công nhân, bộ đội tự canh tác, cải thiện. Chồng chị Phú làm việc trên Ty Nông-Nghiệp nên được chia cho một công đất rất màu mỡ. Lợi dụng địa thế thuận tiện lưu thông, chị Phú dựng lên một vựa thu mua nông phẩm kiếm lời.

not-thang-tram3
Cảnh bán quần áo cũ ở Sài Gòn sau 1975 – nguồn nam ròm

Nhiệm vụ của tôi là cân nhập cà phê, đậu xanh, đậu nành, đậu phọng, rồi hướng dẫn hai cô nhân công chuyển vào kho; cân xuất hàng; kiểm soát hai cô nhân công đưa đủ hàng lên xe cho khách; ký biên lai; nhận biên lai; tổng kết sổ chi thu hàng ngày.

Tôi làm việc trôi chảy được hai ngày. Hôm sau nữa, nhân lúc rảnh, chị Phú nhờ tôi leo lên mái kho, trét nhựa đường vài lỗ dột. Cái thang nhà này đang mắc kẹt chống đỡ buồng chuối tiêu mắn quả sau hiên. Chị Phú chỉ tay sang nhà hàng xóm,

– Anh sang nhà cô Hương nhờ cô ấy cho mượn cái thang một lát.

Sát hàng rào của vựa cà phê là một khu vườn rộng, có giàn su su và những luống đu đủ. Giữa vườn, là một cái nhà tôn, có sân lát gạch để phơi nông phẩm.

Theo lệnh bà chủ, tôi xăng xái đi sang nhà hàng xóm,

– Cô Hương ơi! Cô Hương có nhà không?

Có tiếng trả lời từ sau nhà,

– Tôi ở trong vườn su. Ai đó cứ vào đi.

Tôi lò dò đi vòng ra phía sau nhà.

Bên một gốc đu đủ, người chủ nhà nghe tiếng chân tôi, bèn quay mặt lại,

– Ông cần hỏi chi?

Dưới nắng ban trưa, đứng trước mặt tôi, rõ ràng là cô giáo Ngọc!

Cũng với cái áo bà ba màu xanh điểm hoa khế hồng, và cái quần đen, bộ quần áo cô mặc hôm tôi về đưa cho cô cái ảnh gia đình mà tôi tịch thu được trong mật khu Tứ-Quý. Hai mươi năm qua rồi mà mặt cô vẫn y như xưa, không khác tí ti nào.

Tôi buột miệng,

– Cô giáo Ngọc! Cô ơi! Cô đó ư?

Người đàn bà giật mình hoảng hốt,

– Ủa! Sao ông lại kêu tôi là cô giáo Ngọc? Ông là ai vậy?Tôi nhìn dán mắt vào mặt người đàn bà. Á! mà có chút khác! Cô giáo Ngọc bây giờ trông ngăm ngăm, chứ không còn trắng bóc. Giọng nói của cô thì hoàn toàn xa lạ. Không phải cái giọng “Huế Công Tằng Tôn Nữ” nữa rồi! Hay là tôi đã nhầm người?

Tôi gãi đầu,

– Thưa bà, tôi xin lỗi, tôi lầm bà với một người quen của tôi.

– Ông ơi! Ông là ai? Ông nói người quen của ông là cô giáo Ngọc có phải không?

– Vâng! Bà giống cô Ngọc như đúc, nhưng bà không phải cô Ngọc. Cô Ngọc người Huế. Bà không phải cô ấy.

Người chủ nhà lại thúc giục,

– Ông nói cho tôi biết đi! Ông là ai?

– Tôi xin lỗi bà, tôi tên Hai, là người làm công của vựa cà phê bên hàng xóm. Tôi sang đây mượn cô Hương cái thang về xài một lát. Tôi xin gặp cô Hương.

– Tôi là Hương đây! Nhưng tôi hỏi ông. Ông quen biết như thế nào với cô Ngọc? Tôi là con gái cô Ngọc đây, còn ông là ai?

Tôi lắc đầu lia lịa,

– Con cô Ngọc chỉ có bé Châu và bé Hạnh, không có ai tên là Hương cả.

Người đàn bà như bị choáng váng, bà ta nhìn tôi trân trân, rồi giọng bà ta run run,

– Như vậy ông có phải là anh Long không? Anh Long!

– Vâng tôi là Long, còn bà là ai?

– Bé Châu đây! Anh Long ơi!

Bé Châu òa khóc.

Năm nay (1988) bé Châu ba mươi bảy tuổi, đúng y chang tuổi của cô giáo Ngọc năm Mậu-Thân (1968) khi gặp tôi ở Blao. Bé Châu giống cô giáo Ngọc như đúc. Có khác chăng là làn da, và giọng nói. Hèn nào tôi không lầm cho được?

Bé Châu nắm tay tôi, kéo tôi lên nhà trên. Miệng cô em tíu tít chưa hết chuyện này đã nhảy sang chuyện khác, chẳng đâu vào đâu.

– Từ từ đi Châu! Cô cứ nói lung tung như thế này thì ai mà hiểu được cô muốn nói cái gì. Việc đầu tiên anh muốn biết là mẹ em và bé Hạnh bây giờ ra sao? Có tin tức gì của ba em không?

Tôi vừa cười vừa nhắc cô em hàng xóm.

Bé Châu như tỉnh ngủ,

– Ừ nhỉ, em nói năng lộn xộn quá. Chỉ vì em mừng quá đó anh ơi!  Mẹ và bé Hạnh mất rồi. Còn Ba thì đã…hóa điên. Anh ngồi chơi đây, em đi nấu nước pha trà. Ngồi đây chờ em, đừng đi đâu anh nhé!

Nhóm bếp xong, bé Châu chạy vội lên nhà trên,

– Anh kể cho em nghe đi! Sau đó anh còn ở Blao không? Anh lấy vợ lúc nào? Có mấy cháu rồi? Anh đi học tập có lâu không? Ngày anh về, gia đình anh có thay đổi gì không?

Tôi ngồi tường trình,

– Bốn tháng sau ngày nhà em dọn đi, thì đơn vị anh về Pleiku ở luôn, không còn trở lại Blao nữa. Anh có vợ và có bốn đứa con rồi. Sau Ba Mươi tháng Tư năm 1975 gia đình anh về tá túc ở nhà của mẹ anh, trong khu chợ Nancy Sài-Gòn. Anh đi tù cải tạo mười ba năm, mới được thả ra cách đây nửa năm. Anh đang đi làm công để phụ giúp vợ, nuôi con.

Bé Châu trợn mắt,

– Anh đi học tập cải tạo tới mười ba năm lận! Lâu quá vậy? Chắc chị ở nhà vất vả lắm anh nhỉ?

– Chị làm thợ may và buôn bán làng nhàng để nuôi con. Cũng khổ lắm.

– Tội nghiệp chị! Con thì đông, chồng lại vắng nhà cả chục năm không thấy về, vậy mà chị vẫn kiên tâm vất vả nuôi con chờ chồng. Anh là người có phước lắm đó!

Lúc ấy có tiếng cô Nhi, người giúp việc của chị Phú réo trước cửa,

– Anh Hai ơi! Về cân hàng! Có khách chờ! Chị Phú nói anh sang mượn cái thang, hay sang ngủ ở nhà cô Hương mà cả buổi chưa chịu về?

Nghe tiếng gọi, tôi vội đứng lên,

– Thôi, mai Chủ Nhựt rảnh, anh sẽ lên nói chuyện tiếp. Anh phải về làm việc bây giờ.

Tôi chạy vội ra cửa.

Chị Phú mặt hầm hầm,

– Anh làm ăn đàng hoàng chứ không tôi đuổi đó!

Tôi chẳng tiện phân bua với bà chủ làm gì. Tôi cứ lặng thinh làm phận sự của người làm công.

Từ đó tới chiều, bên hàng rào cứ thấp thoáng bóng dáng bé Châu ngóng cổ sang để tìm tôi.

Bên cót đậu phọng, cô Nhi mắt len lén theo dõi cử chỉ của người hàng xóm, miệng nhỏ to với bà chủ,

– Anh chàng trông khù khờ mà đào hoa dữ a!

Bà chủ thì mặt sưng như tấm thớt.

(còn tiếp 1 kỳ)