Cánh đồng ruộng vào tháng ba khô chan chát. Những luống đất cày như những lượn sóng nối tiếp úp mặt vào nhau làm thành những căn nhà cho mấy chú dế mun, dế lửa đầy đồng.
Tiếng dế thi đua nhau gáy từ những căn nhà khuất lấp dưới những luống cày như vậy vang vang thánh thót giữa những cánh đồng mùa nắng, đã làm cho bầu trời cao rộng với những ánh sao nhấp nháy trong màng mắt vì nắng gắt bỗng dịu mát lại với lòng đam mê bắt dế của tuổi ấu thơ…
Tôi mê dế từ những ngày chưa biết đi học. Những ngày tháng ấy hồn nhiên lắm! Sáng sớm vừa chợp mắt thức dậy là chạy ra cánh đồng, tay cầm cái hộp bằng thiếc mà mẹ tôi để dành đựng kim chỉ vá may. Lần mò theo tiếng dế gáy, hai tay bé nhỏ của đứa trẻ lật những mảng đất cày ngược lại để tìm những chú dế đang ẩn núp đâu đó. Nào là dế lửa với đôi cánh mỏng màu đỏ rực như than hồng đang cháy, có cặp râu dài. Nào là những chú dế mun màu sắc đen tuyền lấp lánh như những cục than đước, loại than mà tôi còn nhớ mỗi lần nướng bánh bông lan, mẹ tôi thường mua về để dành năm ba ký, nên lúc nào cũng có dưới khuôn bếp. Rồi những chú dế trụi với thân mình trần trụi không có một tí cánh mỏng che thân; đôi lúc tụi nhỏ chúng tôi gọi loại dế này là dế mọi vì nghe người lớn cũng thường gọi như vậy. Nhưng có lẽ mấy chị dế mái là hiền từ. Chúng tôi không nghe dế mái gáy bao giờ và cũng không biết đá như dế trống, nên chúng tôi không bao giờ bắt dế mái làm gì. Những chú dế được bắt bỏ vào cái hộp thiếc là những con dế tuyển, có cái đầu to với đôi hàm bén ngót, có đôi râu dài lóng lánh màu đen như những sợi tóc mai, có đôi cánh mỏng mà mỗi lần dế hăng lên đôi cánh ấy được căng lên như cái loa phát ra những tiếng gáy “reng reng” làm cho đối phương hoảng sợ, có đôi chân sau vừa nhỏ, vừa bén chắc, vừa nhanh nhẹn… Khi mang dế về nhà, tôi len lén đi vào trong bếp rồi tìm mấy cái lon sữa bò mẹ tôi thường để trong chiếc giỏ đệm treo tòn ten nơi chái bếp. Căn nhà mới của mỗi chú dế là cái lon sữa bò cũ đó. Tôi cẩn thận cho vào một vài cục đất nhỏ, mấy ngọn cỏ chỉ non cho dế ăn và đậy nắp lại bằng miếng giấy dày có khoét vài lỗ nhỏ cho không khí lọt vào để dế thở. Những lon dế giấu kín dưới nhà bếp, trong kẹt tủ mà rồi cũng gáy vang vang đầy nhà. Và tôi lại mê dế cho tới những ngày đi học sau này ở trường làng.
Đá dế
Nhớ ngày ấy, xa xưa lắm, chị tôi nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng vào dịp tựu trường. Một tay tôi nắm tay chị, còn tay kia cầm ổ bánh mì, mắt tôi cứ nhòe nước mắt. Lần ấy tôi cứ dằng tay chị tôi lại, không chịu vào lớp. Dường như đứa bé nhà quê nào ngày đầu ôm tập đến trường cũng có cùng trạng huống như tôi. Vừa lạ, vừa sợ, vừa nhút nhát là đặc tính của những đứa bé nhà quê lần đầu đi học đến dễ thương nhưng đôi lúc cũng làm cho người lớn nổi giận vì cứ khóc thút thít hoài dỗ không chịu nín. Thế rồi tôi cũng phải vào lớp học với lời dỗ dịu ngọt của chị tôi nhưng đôi mắt trẻ thơ đầy nước mắt cứ đăm đăm nhìn ra ngoài sân trường nơi chị tôi đang chờ tôi ngoài cổng. Như vậy là tôi bắt đầu đi học từ ấy, năm tôi lên bảy tuổi. Vị thầy giáo dạy cho tôi những mẫu tự A, B, C… đầu tiên là thầy Cầm. Ngày trước ở nhà quê, trong xóm ngoài làng người ta xưng tụng với thầy giáo bằng tên thật kèm với hai chữ “thầy giáo” hoặc chữ “thầy” gọn lỏn nhưng đầy vẻ kính trọng mặc dù không gọi thầy với cả tên lẫn họ. Ví như, thầy giáo Ngân, thầy Chánh, thầy Nhì, thầy Trang, thầy Cầm một cách thân tình mà quí trọng. Dù gặp các thầy bất cứ ở đâu, bất cứ trong trường hợp nào cả phụ huynh cùng học trò đều lễ phép cúi đầu chào thầy một cách kính cẩn, trọng nể.
Tôi còn nhớ ngôi trường làng bé nhỏ của tôi gồm ba lớp học nằm lẩn khuất dưới bóng cây dầu cao lêu nghêu. Những cây xoan tây bông trắng tỏa hương thơm, những hàng phượng vĩ xanh quanh năm phía trước sân trường, mùa hè nào cũng nở những chùm hoa đỏ rực làm cho sân trường luôn luôn mát rượi. Mái trường bằng lá tàu, một loại lá dừa nước được xé ra làm đôi bắt đầu từ ngọn lá. Vách trường vừng cao ngang ngực, cũng bằng loại lá dừa nước nhưng những phiến lá mỏng được chằm lại với những sợi lạt cờ bắp bằng ngọn dừa nước. Phía trên là mặt khại với những miếng tre đóng thành những hình thoi được sơn màu đỏ sậm.
Ngôi trường của tôi nằm trên nền cao của ngôi chùa Miên bỏ hoang lâu đời. Phía bên kia con rạch Vàm Nha là ngôi chùa Kỳ Viên với vị sư trụ trì già đức độ mà dân trong làng quen gọi với vẻ tôn kính “Thầy Kỳ Viên”. Mỗi sáng, mỗi trưa vào giờ ngọ, mỗi chiều vào giờ công phu, tiếng chuông chùa ngân nga len lỏi qua từng kẽ lá vẳng đưa đến lớp học như những âm thanh quen thuộc mỗi ngày chạy tràn vào lớp học trường làng.
Tuổi thơ của tôi thật hồn nhiên với những ngày mới đi học. Sáng nào, mẹ tôi cũng nấu sẵn nồi cháo trắng với vài khứa cá lóc kho khô để cho tôi ăn lót lòng trước khi đến trường. Mẹ tôi căn dặn con ráng học vì thầy giáo Ngân khó lắm và cũng đánh học trò bằng roi mây lớn bằng ngón tay. Thật ra, đó chỉ là lời căn dặn thường lệ của mẹ; nhưng tận trong lòng là mẹ tôi cưng con, muốn cho con mình là đứa con ngoan ngoãn và siêng học. Mỗi ngày tôi thường đi học theo con đường làng sầm uất rợp bóng những cây xoài, cây vú sữa với một bên là bờ sông, một bên là những căn nhà sàn cao khỏi đầu như một nét riêng biệt về nhà ở của vùng quê ngoại tôi hầu tránh những tháng nước ngập lụt vào mùa mưa. Bận đi, tôi phải đi bộ qua cầu nhà lầu. Nơi đây là ngôi nhà lầu cao của một người Tàu mà cũng là địa chủ vùng Bình Hoà này. Lúc bấy giờ chỉ còn lại nền gạch vụn hoang phế với những cây thù lù, dây nhãn lồng, dây bìm bìm, hắc sửu mọc đầy cùng bờ tường phía trước mặt cao lêu nghêu với nhiều viên đá hoa cẩn đầy, những bậc tam cấp, cửa ngõ với hai trụ hai bên để hai ngọn đèn Hoa Kỳ như di tích một thời hưng thịnh của một ông chủ ruộng vùng đồng bằng.
Vào tháng nước đổ, dưới dạ cầu là dòng nước chảy xiết đầy những con cá lòng tong mương, những con cá ngựa với chiếc kỳ đỏ au lội ngược nước rượt đuổi mấy chú cá lòng tong bay làm cho dòng nước văng tung tóe như những nụ cười đùa giỡn của loài cá đầy những chiếc xương nạng này; một loại xương mà mỗi lần mẹ tôi mua loại cá này về nấu canh chua thường nhắc nhở chị em tôi ăn coi chừng mắc xương. Nhớ có lần ông nội tôi bị mắc loại xương cá ngựa mà không cách gì lấy xương ra được. Chạy thầy đối đế nhưng cái xương nạng dài thượt vẫn còn nằm trong cổ họng mấy ngày. Sau cùng ông tôi bảo ra tiệm thuốc bắc mua vảy con trúc, về đốt thành than rồi tán nhuyễn và dùng ống trúc vạt mỏ vịt, để tro của vảy con trúc vào ống mà thổi vào miệng. Vậy mà ông tôi sặc ra được cái xương nạng con cá ngựa dài có tới hơn ba phân mắc ngay thực quản mấy ngày trời.
Qua khỏi cầu nhà lầu, tôi theo mấy đứa bé trong xóm lũ lượt đi trên con đường làng dài hơn hai cây số như vậy đi ngang ngôi chùa Tân An Tự với cột phướn cao trước sân chùa treo lủng lẳng lá phướn màu đỏ dài chấm đất vào những ngày rằm lớn. Bến chùa là chiếc cầu mát lợp bằng ngói âm dương de ra dòng sông bên gốc bồ đề cổ thụ um tùm những tán lá xanh quanh năm. Nhớ có lần đi học còn sớm, chúng tôi rủ nhau ghé lại chùa xem con qui nằm nơi hậu liêu, xem ông Phật Mười Tám Tay, ông Tiêu le lưỡi dài. Chúng tôi ra phía hông chùa lượm những bông mận, bông lê thơm một mùi thơm thật ngạt ngào làm trái vụ bỏ đầy cặp. Hồ sen phía sau chùa nở những cánh hoa trắng với nhụy hoa vàng vượt lên trên nền lá xanh tròn che khuất mặt nước. Rải rác mấy gương sen non đầy hạt hướng mặt lên nền trời cao như những đóa hoa quỳ hướng mặt về vầng thái dương. Năm ba ngọn tháp hình lục giác cao nhiều tầng là những ngôi bảo tháp mà bên trong là xác thân trần phàm của các sư cụ trụ trì chùa này đã viên tịch. Điều đó cho thấy ngôi Tân An Tự này là ngôi cổ tự, đã có từ lâu lắm rồi với phong cảnh xung quanh thật là u tịch, trang nghiêm.
(Xem tiếp kỳ sau)
LTT