Menu Close

Đà Nẵng 1966 (kỳ 2)

ban-tho-phat-xuong-duong
Bàn thờ Phật xuống đường cản trở sự di chuyển của quân đội – nguồn Flickr.com

Hồi ký 7 kỳ

Kỳ 2

Xế trưa, bỗng có một đoàn xe vận tải của Quân Vận chạy tới. Ông Ðại úy trưởng đoàn chìa cái sự vụ lệnh cho tôi xem (tôi không nhớ ai đã ký) ghi rằng, đoàn xe sẽ chở Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân về phòng thủ Chùa Tỉnh Hội Ðà-Nẵng.

Tưởng Ðại úy tiểu đoàn trưởng đang ở Chùa Tỉnh Hội. Tôi cho ba chiếc GMC về dinh của Tướng Ðính để bốc Ðại Ðội 3/11, rồi ra lệnh cho tất cả quân nhân hiện có mặt trong sân leo lên những chiếc GMC còn lại.

Ðoàn xe chạy qua Chợ Cồn rồi quẹo sang đường Ông Ích Khiêm hướng về Chùa Tỉnh Hội. Hai bên đường dân chúng đứng chật như nêm. Người người hoan hỉ, nói cười, vẫy tay, hoan hô ầm ĩ.

Xuống xe, tôi cho quân bố trí phòng thủ quanh vòng rào của Chùa Tỉnh Hội.

Tôi bước vào chính điện để hỏi xem ông tiểu đoàn trưởng của tôi có mặt nơi đây không. Nào ngờ, người tôi chạm mặt đầu tiên lại là Thiếu tá Tôn Thất Trai. Thấy mặt tôi, ông Trai la oang oang,

– Thằng Dzu phản rồi! Nó chạy vào phi trường đầu hàng và đi theo cha Loan rồi!

Tin này làm cho tôi tá hỏa. Mới vài hôm trước, trong phòng họp các sĩ quan, Ðại úy tiểu đoàn trưởng dọa sẽ nghiêm trị những ai có tư tưởng hay hành động chống đối phong trào ly khai của Quân Dân Miền Trung.

Cái điệp khúc: “Ý dân là ý trời! Chống lại ý dân tức là chống lại ý trời!” hầu như trong cuộc họp nào, chúng tôi cũng phải nghe. Vậy mà hôm nay trắng đen lộn mặt, không ai ngờ được.

Ông Trai móc túi áo lấy ra cái lon đại úy ba mai vàng sáng chói rồi nắm ngực áo tôi định gắn cái lon ấy vào.

– “Toa” đeo cái lon này lên ngực để mà chỉ huy. Giấy tờ sẽ điều chỉnh sau. Bây giờ nhiệm vụ đầu tiên của “toa” là đem tiểu đoàn về phòng thủ Chùa Phổ Ðà.

Tôi bất bình, gạt tay ông ta ra,

– Không được! Thứ nhất là, không ai ở đây có quyền gắn lon thăng cấp cho tôi. Thứ hai là Ðại úy Dzu đi rồi, bây giờ tôi chỉ nghe lệnh của Tướng Vùng mà thôi! Tôi muốn biết Tư Lệnh Vùng bây giờ ở đâu?

Thiếu tá Trai giơ tay vỗ vỗ vài cái vào hông tôi rồi ôn tồn,

– Chờ chút! Chờ chút nhé!

Ông Trai lanh lẹ quay người đi vào chánh điện. Chừng một phút sau ông ta quay ra,

– Thủ tướng ra lệnh cho Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân về án ngữ tại Chùa Phổ Ðà để ngăn chặn quân chính phủ từ phi trường tiến ra.

ton-that-dinh
Tướng Tôn Thất Đính – nguồn life

Tôi thắc mắc,

– Thủ tướng nào? Ai là Thủ tướng ở đây?

– Thì Bác sĩ Mẫn, Thị trưởng Ðà-Nẵng chứ ai?

– Tôi không dưới quyền Thị trưởng hay Thủ tướng nào cả, tôi cần gặp Trung tướng Tư Lệnh ngay bây giờ!

Ông Trai kèo nài,

– Thì “toa” cứ làm theo sự phân công của Thủ tướng đi. Chiều nay Trung tướng Ðính sẽ nói chuyện với “toa” sau.

Không biết làm gì hơn, tôi đành miễn cưỡng chấp thuận,

– Vậy cũng tạm được!

Bỗng nhiên đạn đại liên từ hướng Ðông “Toác! toác!…!Chíu! chíu!” bay sang như mưa.

Quay qua quay lại không thấy bóng ông Thiếu tá Trai đâu cả, tôi vội phóng mình ra ngoài sân. Mái chùa bể, vụn ngói bay tung tóe, bụi khói mịt mù. Con rồng bằng sứ nằm trên nóc chùa bị bắn vỡ đầu. Chiếc xe bồn đựng nước đậu trước cổng chùa cũng trúng đạn, nước phun có vòi. Có tiếng la thất thanh:

“Chết! Có người chết! Cứu thương! Cứu thương đâu! Có người đổ ruột đây nè!”

Sân chùa trở thành một nơi hỗn loạn cùng cực, với đủ mọi thứ âm thanh. Tiếng đạn bay, tiếng người kêu gọi tên nhau, tiếng la hét đau đớn của người bị trúng đạn cùng với tiếng khóc ré từng chặp của con nít tạo thành một không khí hỗn độn chưa từng thấy.

Tôi leo lên bờ tường, đứng dựa hàng rào sắt, mặt quay về sân chùa. Mặc cho đạn đại liên đang như mưa rào trên mái ngói, tôi hét to:

– Ðồng bào đừng sợ! Ðồng bào đừng sợ! Biệt Ðộng Quân sẽ bảo vệ đồng bào! Ðồng bào đừng sợ!

Nghe tiếng tôi oang oang trấn an, bà con bớt sợ, bớt ồn ào ngay. Ðồng bào tôi nằm rạp đất, nằm đè lên nhau, ngổn ngang trong sân. Họ đang nhìn tôi, ánh mắt đầy tin tưởng lẫn lo âu. Ngay sát chân tường, dưới chân tôi, nhiều đồng bào tôi đang khóc.

Ðứng trên cao, tôi thấy được vị trí khẩu đại liên trên một sân thượng hướng Ðông. Khẩu súng sát nhân ấy đang khạc đạn vào đồng bào tôi một cách không thương tiếc.

– Tính đâu! Tính đâu!

– Em đây Thẩm Quyền!

Khẩu 57 ly được vác tới. Tôi đỡ vai cho Hạ sĩ Tính. Hai người leo lên tháp chuông trước cổng. Tính kê súng lên vai.

Tôi nạp một viên đạn, khóa nòng, rồi vỗ tay lên nón sắt của Tính. Tính bóp cò.

“Oành!” Ðạn bay đi.

“Ùm!” Ðạn nổ! Lửa chói lóa trên mục tiêu. Khói và bụi bay lên cuồn cuộn.

Tôi nạp một viên đạn nữa, rồi lại khóa nòng, vỗ tay lên nón sắt của Tính. Tính bóp cò.

Oành!” Ðạn bay đi.  “Ùm!” Khẩu đại liên hết hoạt động.

Dẹp xong ổ đại liên, tôi nhảy xuống sân kiểm tra tình hình. Sân chùa đang trong tình trạng vô cùng lộn xộn. Có hai người chết — một bà già và một thanh niên Phật Tử. Còn cả chục người khác bị vỡ đầu, đổ ruột, đang nằm kêu khóc rên la. Những thanh niên Phật Tử trong đội cứu thương chỉ biết băng bó cứu cấp những vết thương xoàng xĩnh, gặp trường hợp vỡ đầu phọt óc, ruột đổ lòng thòng, họ luống cuống, không biết xử trí ra sao.

Tôi gọi to,

– Quân Y đâu! Quân Y đâu!

Chỉ có hai anh y tá của tiểu đoàn chạy lại nhận lệnh băng bó cho người trúng đạn.

Tôi hỏi anh y tá,

– Thiếu úy Lẹ đâu?

– Dạ em không thấy ông ấy đâu cả!

Sau này tôi được biết ông Thiếu úy Lẹ, Trưởng ban Quân Y của tiểu đoàn, đã đi theo ông tiểu đoàn trưởng vào phi trường đầu hàng Ðại tá Nguyễn Ngọc Loan từ những ngày trước.

Một chiếc xe GMC được điều động để chuyển những người bị thương về Bệnh Viện Dân Y bên đường Hùng Vương.

Từ hướng cuối đường Nguyễn Duy Dương, nơi hai chiếc xe Jeep đậu sát bên hàng phi lao có tiếng loa oang oang:

“Yêu cầu toàn thể quân nhân các cấp thuộc Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân buông vũ khí và ra trình diện gấp!”

Tôi nghĩ cái loa tay này cũng cùng phe nhóm với khẩu đại liên 30 trên căn gác kia, nên sẵn súng đạn, tôi ra lệnh cho Hạ sĩ Tính nhắm gốc cây keo giữa hai chiếc xe, bắn thị uy một quả 57 ly. Ðạn rơi hơi ngắn, chạm mặt đường, nổ tung, và hất một chiếc Jeep lộn mèo xuống mương thoát nước bên hàng phi lao.

Tôi không cố ý giết những người ngồi trên hai chiếc Jeep đó, mà chỉ muốn bắn dọa để đuổi họ đi thôi. Không rõ có ai bị thương vong không, nhưng sau đó thì cái loa tay đã im tiếng.

Sau này tôi được biết, chiếc Jeep bị bắn lộn cổ xuống mương là xe của Trung tá Trần Văn Hai, Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/ Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa! Cũng may, lúc đó không có ai ngồi trên xe cả!

Trong khi tôi chuẩn bị dẫn quân đi thì có bàn tay ai nắm áo tôi giựt lại,

– Ê! Long! Bây giờ mày định đem lính đi đâu vậy?

Quay lại, tôi nhận ra đó là Thiếu úy Nguyễn Xuân Hồng Chân của Trung Ðoàn 51 Biệt Lập. Thiếu úy Chân là bạn cùng Khóa 20 Võ-Bị của tôi. Tôi không rõ bạn tôi tự ý tham gia phong trào ly khai hay đã tham gia cùng với đơn vị của anh.

– Tao đem quân về giữ Chùa Phổ Ðà. Thôi! Tao phải đi ngay. Hẹn ngày gặp lại!

Bắt tay bạn xong, tôi khoát tay cho lệnh tiểu đoàn di chuyển.

Chúng tôi không đi trong phố mà len lỏi trong đường làng. Qua một vạt ruộng thì tới đường Hoàng Diệu. Tôi xua quân lên chiếm giữ hai đầu đường Chu Văn An để giữ an ninh cho toàn bộ tiểu đoàn tiến vào khu nhà dân xung quanh Chùa Phổ Ðà.

Bộ chỉ huy tiểu đoàn đóng trước sân chùa hướng Phan Châu Trinh. Các đại đội thì ém quân trong nhà dân. Những nhà dân bên đường đều bị đục tường làm lỗ châu mai, sẵn sàng cho một cuộc tác chiến trong đường phố. Nếu có giao tranh, trăm phần lợi thế sẽ nằm trong tay chúng tôi vì quân chính phủ sẽ nằm khơi khơi trên phố không có gì che giấu.

Tối hôm đó Tướng Tôn Thất Ðính vào máy truyền tin gọi tôi và ra lệnh cho tôi từ nay phải nghe lệnh ông Bác sĩ Mẫn và ông Thiếu tá Trai. Ông Thiếu tá Trai sẽ liên lạc trực tiếp với tôi.

Sáng hôm sau có tin đánh nhau vùng Ngã Ba Cây Lan. Trên trời, hai chiếc máy bay AD 6 bay lượn và bắn xuống khu tranh chấp để yểm trợ cho quân chính phủ.

Nhớ lại cảnh tượng xảy ra ngày hôm trước, chỉ có một khẩu đại liên 30 bắn vãi một dây đạn vào sân chùa Tỉnh Hội mà đã có cả chục nhân mạng thương vong; nay hai chiếc oanh tạc cơ trang bị đầy bom, đầy đạn dưới cánh kia sẽ giết chết bao nhiêu người dân vô tội đây? Tôi nghĩ rằng, muốn chận đứng cảnh chết chóc, chỉ có cách bắn vào phi trường, không cho máy bay cất cánh. Nghĩ là làm ngay. Tôi cho khẩu đội cối 81 ly “phang” 6 quả đạn nổ vào phi trường.

Rồi sau một cái phất tay của tôi, súng lớn, súng nhỏ, trung liên, đại liên, garand, carbine, đua nhau khạc đạn lên trời, nhắm hướng hai chiếc AD6. Chúng tôi nghiến răng siết cò súng, hy vọng ngăn chặn được những quả bom, làn đạn, đang tưới xuống đầu người dân Ðà-Nẵng, trong đó có thân nhân của chúng tôi, và có thể, có cả thân nhân của những vị phi công đang lái hai chiếc AD6 kia. Lúc này tôi chỉ hành động theo phản xạ, không suy tính thiệt hơn, không nghĩ tới hậu quả của việc mình làm.

Chỉ vài phút sau trên trời đã thấy xuất hiện hai chiếc chiến đấu cơ khác. Hai chiếc phản lực này bay kè hai chiếc AD 6 không cho bắn phá nữa. Một lúc sau thì cả bốn chiếc máy bay biến mất.

Tôi kiểm điểm lại thì thấy chỉ còn 14 trái đạn cối 81 ly nữa là hết số đạn mang theo. Tôi cho lột vỏ hết 14 viên đạn còn lại này, sẵn sàng phóng đi.  Chỉ cần thấy bóng dáng những chiếc oanh tạc cơ tái xuất hiện trên bầu trời thì 14 viên 81 ly đó sẽ theo nhau bay vào phi trường ngay.

Rồi thì, thật bất ngờ, đại liên 12.7 ly trên đường Phan Châu Trinh từ phía Bắc bắn như mưa về hướng Phổ Ðà. Một đoàn chiến xa M41 vừa tác xạ vừa ào ào chạy tới. Khẩu 57 ly của Hạ sĩ Tính đặt trên tháp chuông mới bắn được một viên thì cái nóc tháp chuông đã bị đại bác trên xe tank bắn bay mất. Hạ sĩ Tính sợ quá, nhảy vội xuống đất núp sau bệ đá. Ðoàn chiến xa này là một đơn vị thiết kỵ Hoa-Kỳ. Tôi chẳng hiểu tại sao Tướng Tư Lệnh Vùng của tôi đang tỵ nạn trong Bộ Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ mà chiến xa Mỹ lại tấn công chúng tôi?

Có điều là quân Mỹ không có ý giết chúng tôi, đạn của họ dù bắn như mưa, nhưng bắn rất cao.  Khi những chiến xa Hoa-Kỳ đã bao vây sát bờ tường Chùa Phổ Ðà, tôi liều mạng bước ra cổng xem người Mỹ muốn gì.

Một Ðại úy Hoa-Kỳ nhảy xuống đất, ngỏ ý muốn gặp cấp chỉ huy của Biệt Ðộng Quân. Tôi nói với ông ta rằng, tôi là người chỉ huy ở đây. Ông Ðại úy Mỹ nói, người Mỹ đã đứng ngoài vụ tranh chấp này. Nhưng 6 viên cối 81 ly của tôi đã không rơi trên khu Không Quân Việt-Nam mà rơi trên khu đậu máy bay của Mỹ nên quân đội Mỹ phải can thiệp.

Tôi phân bua với người sĩ quan Mỹ rằng, trong một nước dân chủ, việc dùng vũ lực để đàn áp lực lượng chính trị đối lập là một hành động man rợ, thô bạo và vô nhân đạo, không chấp nhận được. Chính quyền trung ương đã dùng tới không quân để tiêu diệt chúng tôi thì, để tự vệ, tôi sẽ làm tất cả những điều có thể làm, sử dụng bất cứ phương tiện gì mà tôi có trong tay để đánh trả. Nếu người Mỹ thấy cần giết chúng tôi thì cứ ra tay, chúng tôi không hề sợ chết. Tôi chỉ cho ông Ðại úy Hoa-Kỳ nhìn thấy đống đạn 81 ly đã lột vỏ, rồi nói với ông ta,

– Nếu máy bay tiếp tục bắn phá, tôi sẽ gửi số đạn kia vào phi trường ngay lập tức.

Tôi vừa dứt tiếng thì vị sĩ quan Hoa-Kỳ tiến lên ôm ngang hông tôi tỏ vẻ thân thiện, rồi thông báo cho tôi biết rằng, giờ này Không Quân Mỹ đã kiểm soát toàn bộ phi trường và tạm thời không cho máy bay Việt-Nam cất cánh nữa. Ðể đổi lại, ông ta đề nghị tôi phải ngưng ngay hành động pháo kích. Nếu tôi không làm theo lời yêu cầu của ông ta, ông ta đành phải san bằng chùa Phổ Ðà.

Sau khi nghe tôi hứa sẽ không nã pháo vào phi trường nữa thì đoàn chiến xa Mỹ mới chịu kéo nhau đi.

Ðêm hôm đó chiếc Jeep của Ðại úy Tiểu đoàn trưởng trở về đậu trước cổng chùa trên đường Chu Văn An. Ông Ðại úy đi cùng anh Chuẩn úy Hồ Văn Hữu, sĩ quan ban 5 Tiểu đoàn, và người tài xế. Dưới ánh điện đường tôi thấy dáng dấp của ông thật là tiều tuỵ. Râu tóc bờm xờm, áo quần xốc xếch, ông ngồi xẹp trên mặt đất trước đầu xe. Tôi tới đứng nghiêm trước mặt ông, rồi giơ tay chào ông theo đúng quân cách.

– Ðại úy trở về rồi ư? Anh em đang chờ Ðại úy.

Ðại úy Dzu không bắt tay tôi. Ông cúi mặt nhìn xuống mặt đường. Những ngón tay ông cào cào vô thức trên mặt lộ. Rồi mặt vẫn không ngẩng lên, ông nói nhỏ,

– Long bỏ tiểu đoàn rồi theo “moa” vào phi trường theo ông Kỳ có được không?

– Còn anh em?

– Bỏ tụi nó đó! Không có người chỉ huy, tụi nó sẽ tự giải tán thôi!

Tôi bất mãn, lớn tiếng,

– Ðại úy đem con bỏ chợ. Nay còn vác mặt về rủ rê tôi làm điều tồi tệ này nữa sao?

– Long à! Mình có còn con đường nào khác nữa đâu?

Ðại úy thều thào phân bua.

Từ lúc chiếc xe ngừng trước cổng, đã có nhiều binh sĩ chạy ra vây quanh ông Tiểu đoàn trưởng. Họ đã nghe rõ những lời ông nói. Vài người tỏ vẻ bất mãn quay lưng bỏ đi; vài người tức giận buột miệng chửi thề. Bốn năm khẩu súng lên cò chĩa vào đầu ông Ðại úy và ông Chuẩn úy làm cho hai vị này hoảng hồn nhìn tôi cầu cứu. Hạ sĩ Trần Quy vừa khóc vừa gào lên:

“Ðại úy là đồ tồi! Ðại úy là thằng phản bội! Ðại úy là thằng hèn!… Hu! Hu! Hu!…”

Tôi sợ tình trạng này kéo dài, sẽ khích động anh em khiến tính mạng của ông Ðại úy khó được bảo toàn, nên vội giơ tay ngăn cản anh em lại,

– Anh em bình tĩnh! Việc gì cũng có thể giải quyết ổn thỏa.

Sau đó tôi cúi xuống nói nhỏ vào tai ông Dzu,

–  Ðại úy nhồi nhét cái tư tưởng “ý dân là ý trời” vào đầu óc anh em. Anh em đã răm rắp tuân theo lời Ðại úy. Nay Ðại úy bỏ dân chúng, bỏ anh em, thì Ðại úy cũng đừng trách anh em nặng lời với Ðại úy. Tôi nghĩ rằng, giờ này Ðại úy nên đi khỏi nơi đây là tốt nhất!

Tôi hất hàm ra dấu cho Chuẩn úy Hồ Văn Hữu; anh Hữu lật đật xốc nách ông Dzu dìu ông lên xe.  Chiếc Jeep Willy rồ ga, nhắm hướng phi trường.

Thì ra 6 viên đạn súng cối 81 ly rơi trên khu đậu máy bay của Mỹ, cùng những tràng súng nổ rền trời, rền đất một góc thành phố buổi sáng ngày hôm đó đã khiến những người chỉ huy mới của ông Dzu lo ngại, rồi ra lệnh cho ông ta phải quay về chiêu dụ tôi theo họ.

(còn tiếp 5 kỳ)