Menu Close

Chút ký ức cho 20-10

Hôm nay 20/10/2013, như mọi năm vào ngày này, ra đường tôi thấy nhiều người bán hoa trên các góc phố Sài Gòn để làm quà cho phụ nữ: các bà mẹ, bà vợ, người yêu, con gái… Không chỉ Sài Gòn, mà Hà Nội và các tỉnh thành trong nước chắc cũng như vậy. Thắc mắc, tôi tìm hiểu thì được biết hôm nay là ngày thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam chứ không phải là ngày Quốc tế Phụ nữ, vốn được quy định vào ngày 08/03.

Lên mạng, một chị facebooker hiện sống ở nước ngoài viết, “Hôm nay mình nhận được nhiều lời chúc từ Việt Nam nhân ngày Phụ nữ Việt Nam (?) mình ngạc nhiên vô cùng! Đối với mình ngày này rất xa lạ. Mình chỉ biết ngày Phụ nữ Việt Nam là ngày mồng 6 tháng 2 Âm lịch, cũng là ngày tưởng niệm Hai Bà Trưng từ khi mình còn bé cho đến lúc trưởng thành. Sau năm 1975, mình vẫn còn ở Việt Nam một thời gian nhưng chưa hề nghe nói ngày 20. 10 là ngày Phụ nữ Việt Nam. Cho đến bây giờ mới nghe thấy.”

alt

Bà Nguyễn Thị Tuệ bên những tờ giấy chứng nhận nhàu nát bởi thấm nước lũ – nguồn us.24h.com.vn

À, ra vậy! Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là một tổ chức nằm trong bộ máy chính quyền Việt Nam; chị facebooker này không ở trong nước, không là thành viên tổ chức đó, thì làm sao chị biết và thấy vui với nó. Vậy là ở VN, mỗi năm người ta ăn 2 cái lễ dành cho phụ nữ: ngày 08/03 (Quốc tế Phụ nữ) và ngày  20/10 (thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam); còn lễ tưởng niệm Hai Bà Trưng và Phụ nữ Việt Nam của chính quyền miền Nam trước 1975, vào ngày mồng 6 tháng 2 Âm lịch, thì đã bị xóa mất. Chẳng lẽ chính quyền muốn quên Hai Bà Trưng? Việc tưởng nhớ các bà chỉ làm tổn hại tình hòa hiếu với Trung Quốc chăng?

Dạo một vòng trên các diễn đàn báo chí, tôi thấy hôm nay người ta tôn vinh những Bà mẹ Việt Nam anh hùng rất nhiều. Những bà mẹ của thời chiến tranh, những bà mẹ thuộc về phe thắng cuộc.

Theo thông tin trên Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia) thì:

“Bà mẹ Việt Nam anh hùng là danh hiệu mà nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tặng hoặc truy tặng những phụ nữ Việt Nam có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Danh hiệu này được ban hành theo pháp lệnh ngày 29 tháng 8 năm 1994 và pháp lệnh sửa đổi bổ sung số 05/2012/UBTVQH13 ngày 20/10/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Tiêu chuẩn đạt danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” (kể cả là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam) dành cho những phụ nữ đạt một trong những tiêu chuẩn sau:

Có hai con trở lên là liệt sĩ

Có hai con mà một con là liệt sĩ, một con là thương binh với thương tật từ 81% trở lên.

Chỉ có một con mà người đó là liệt sĩ;

Có một con là liệt sĩ, chồng và bản thân là liệt sĩ.

Liệt sĩ được công nhận khi có bằng Tổ Quốc Ghi Công, con là con nuôi hoặc con đẻ theo quy định của pháp luật Việt Nam. Danh hiệu do chủ tịch nước ký tặng hoặc truy tặng theo đề nghị của chính phủ Việt Nam. Người được tặng (truy tặng) được cấp bằng và huy chương Bà mẹ Việt Nam anh hùng.”

Tôi nghĩ, cái danh hiệu “bà mẹ Việt Nam anh hùng”, là cách dùng từ không đúng. Chữ “Anh hùng” là dành cho phái nam, còn với phụ nữ thì phải dùng từ “Anh thư” mới đúng. Nhưng ở đây không chỉ có chuyện bắt bẻ chữ nghĩa, mà còn ở nội hàm của nó trong đời sống thật. Tôi muốn khóc khi nhìn tấm hình dưới đây: bà mẹ ngồi lặng nhìn những tấm bằng khen, bằng liệt sĩ rách nát, là chứng tích của sinh mạng chồng con của bà. Bà là một bà mẹ đau khổ, chứ không phải là bà mẹ anh hùng. Ngẫm mà xem, ý nghĩa “anh hùng” trong tình huống này đồng nghĩa với “đau thương”. Bà mẹ này hai lần làm nạn nhân của thời cuộc. Lần đầu là nạn nhân của chiến tranh, lần sau là nạn nhân của sự vô cảm, sự quên lãng. Có bao nhiêu bà mẹ như thế này trên đất nước? Tôi e rằng vô số! Đó là chưa kể đến những bà mẹ cũng đau khổ không kém, những bà mẹ miền Nam, thuộc phe thua cuộc.

Tôi tự hỏi cái Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam kia, cái hội đại diện cho nhà cầm quyền VN, đã làm được những gì cho bà mẹ đau khổ này? Người ta còn nhớ tới bà hay không? Hôm nay người ta mang hoa đến tặng bà ư? Bà có cần hoa không? Người ta đối xử với bà có tử tế hay không? Hay họ – cái hội này – đang bận rộn dựng lên những bức tượng như mô hình bức tượng có chi phí hàng trăm tỷ, ngàn tỷ này?

Tôi vừa đọc một bài viết cảm động trên facebook của nhạc sĩ Tuấn Khanh, Chút ký ức cho 20-10. Ông không nói về những bà mẹ VN thời chiến, ông nói về những người phụ nữ trong thời bình, như sau:

Chút ký ức cho 20-10

Trong tất cả những câu chuyện về những người phụ nữ mà tôi nhớ được, có một câu chuyện luôn ám ảnh tôi trong nhiều năm tháng. Đó là một người phụ nữ vô danh, nghèo khó như bao nhiêu người nghèo khó trên đất nước này. Tôi chọn ngày 20-10 để ghi lại chút ký ức về bà, vì nếu lỡ quên đi, chắc là tôi sẽ hối tiếc nhiều.

Bà là một người bán bánh mì, đứng khép nép ở lề đi bộ gần cửa trường Pétrus Ký cũ, nơi tôi vẫn đạp xe đi học ngang qua mỗi sáng. Thời sinh viên Đại học, tiền chưa bao giờ đủ cho 2 ổ bánh mì một ngày, xe bán bánh mì của bà là nơi ưa thích của tôi và nhiều sinh viên khác vì bà vẫn luôn có một thái độ ưu ái thầm lặng với bọn mài đũng quần trên giảng đường.

Thêm một chút nước thịt, một vài miếng dưa leo; Thậm chí liếc thấy ai đó gầy gò, bà vẫn cho thêm được 1,2 miếng thịt mong mỏng. Một thông điệp quý giá và thầm lặng, nhưng mãnh liệt hơn cả những hứa hẹn về học bổng hay tài trợ tương lai từ Bộ Giáo Dục, khiến giới sinh viên rỉ tai nhau và hay ghé vào mua bánh mì trong một niềm tin trong sáng.

alt

Tượng đài Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng – nguồn vuhuyduc.blodspot.com.vn

Nơi đó quen thuộc đến mức nhiều khi buổi chiều, đi ngang, tôi vẫn nhìn xem có bà bán nơi đó không. Nhiều năm như vậy, bức tranh ngày thường đó, tôi đã mang theo suốt cuộc đời.

Rồi một ngày, khi đạp xe đến mua bánh mì, bà chỉ còn bán bằng chiếc thúng đặt trên yên sau của một chiếc xe đạp thồ. “Xe bán bánh đâu rồi bà?”, tôi hỏi.

“À, mấy ông dẹp lề đường bắt rồi”, bà nói, tay vẫn gói bánh. Đứa con gái phụ bà kể rằng mấy ông ở Phường đến tịch thu, và nói nếu xin đóng tiền phạt, thì có thể lãnh xe về. “Dì sao mà đủ tiền đóng con”, bà nói.

Xe thì không còn, nhưng ổ bánh mì của tôi vẫn y nguyên cái tình cảm của một người nghèo vẫn dành cho giới sinh viên. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi đạp xe đi, ăn không hết ổ bánh mì và nghĩ rất nhiều về sự bình an đã mất trong trái tim mình.

Không chỉ là một lần. Chỉ mấy tuần sau, tôi lại thấy bà chỉ còn bán bánh mì trong một cái thúng cặp nách. “Xe cũng bị lấy rồi, mấy ổng nói má em cứng đầu quá, phạt cho tởn”, đứa con gái của bà nói. Trời cho thế gian này có thứ bậc quan và dân. Quan vẫn làm chuyện của quan, dân vẫn làm chuyện dân. Và tôi cũng cầm ổ bánh mì đầy đặn như mọi khi, chạy đi, ước mong trẻ con đến phát khóc rằng phải chi mình trúng số để cho tiền bà đóng phạt.

Bánh mì của người nghèo nuôi tôi lớn. Bài học ở trường dạy tôi biết. Cuộc đời cho tôi chứng kiến để tôi hiểu, nhưng tôi vẫn suy nghĩ trẻ con.

Tôi vẫn trẻ con đến mức thời gian ngắn sau đó, tôi chạy vòng tới vòng lui để tìm người đàn bà bán bánh mì quen thuộc, thậm chỉ trễ cả giờ học đầu. Bà không còn ở đó nữa cho đến tận hôm nay. Có lẽ bà đã mưu sinh ở một nơi nào đó khác, như người ta vẫn đùa rằng năng lượng đời không tự nhiên mất đi, mà chỉ bị xô đuổi từ nơi này sang nơi khác mà thôi.

Nhiều năm sau, tôi vẫn còn bị ám ảnh về thứ ký ức nhỏ nhặt này. Cho đến một hôm, thời hiện tại, tôi chứng kiến chiếc xe Jeep dân phòng dừng ở một nơi quen thuộc. Những người đàn ông cũng có vợ, có con gái, có mẹ… đang tần tảo, nhưng hùng hổ xô, giật, đạp những thứ buôn bán nhỏ nhặt của nhiều người phụ nữ. Trên tay họ là gậy, là dùi cui. Trên miệng họ là khẩu lệnh và nụ cười gằn. Tiếng la hét, tức giận, và có cả tiếng khóc thét của những người đàn bà giữa phố. Nhưng điều đó chẳng là gì trước những bộ đồng phục lạnh lùng sừng sững, tựa như vô tri.

alt

Cũng là những người bán hàng rong, nhưng rất nhiều người, ở rất nhiều nơi sẽ được để yên khi đã nộp tiền. Thậm chí những bộ đồng phục đó chỉ quần thảo với danh sách những ai chưa đóng tiền chỗ, mà những người bán hàng cười mỉa: “ứng trước tiền phạt”.

Tôi nhớ đến người đàn bà bán bánh mì mà tôi không biết tên. Tôi hình dung những gì bà đã mất nhưng vẫn giữ lại hơi ấm khi trao từng chiếc bánh mì cho bọn sinh viên khố rách áo ôm chúng tôi.

Tôi tin vào mọi lý thuyết của sự phát triển, nhưng tôi cũng tin rằng người ta sẽ buộc phải ‘cứng đầu’ để có thể sinh tồn. Nhất là khi sống trong một quốc gia đang quá khốn khó để sinh tồn.

Ngày 20-10 hàng năm, tôi thường nhìn thấy những người đàn bà to đẹp, trang phục đắt tiền trên truyền hình. Thậm chí họ được gắn huân chương mà tôi không rõ vì lý do gì. Những giờ phút đó, tôi vẫn hay nhớ đến người đàn bà bán bánh mì mà tôi biết, cũng như hàng triệu người phụ nữ vô danh khác đang trở thành kẻ phạm luật trong một cái khung công lý quá chật chội với thực tế của một con người trên đất nước này. Tôi tôn trọng luật pháp vì tin vào tương lai, nhưng tôi vẫn luôn nhìn trừng vào nó để có thể nhận ra, ghi nhớ rằng điều gì phải cần phải thay đổi một khi đất nước này thật sự có những người biết lắng nghe và, thật sự yêu thương dân tộc này.

Thật đơn giản, vì tôi đã mang ơn những ổ bánh mì nghèo hèn vô danh, nên tôi không bao giờ có thể quên những điều đó.

Tôi là người Việt”

Những sự thật đối nghịch nhau đang tồn tại đồng thời trên đất nước này.

Tượng đài và mớ bằng liệt sỹ tươm rách. Những bữa yến tiệc xa hoa và ổ bánh mì nghèo hèn.

Thời gian cứ trôi, những bông hoa ế đang úa tàn trong cơn mưa chiều. Ý nghĩa của ngày 20/10 ư?

Một ngày nhạt nhẽo. Và nhảm!   

ND