Sinh thiếu tháng ở số 840 đường Tucumán, Buenos Aires, Á căn đình. Tên họ đầy đủ của ông là Jorge Francisco Isidoro Luis Borges Acevedo. Là một nhà thơ và người viết truyện, một “nhà văn của các nhà văn” ở thế kỷ XX. Ông chia sẻ một nửa giải Formentor cùng với Samuel Beckett, nhưng không bao giờ đoạt giải Nobel Văn chương. Ông chỉ học hết bậc trung học ở Genève (nhưng các đại học danh tiếng trên thế giới đã tặng ông khá nhiều bằng Tiến sĩ danh dự!) Về cuối đời ông mù hẳn và phải đọc văn thơ cho người quen chép lại. Ông mất tại Genève sau khi đã tục huyền, bằng cách ủy quyền, với bà María Kodama. Những người biết ông đều nhìn nhận ông là một nhà văn xuất chúng, một bộ óc uyên áo khác người. Dựa vào những truyện ông viết lúc sau, người ta bảo ông viết truyện như viết tiểu luận, biên khảo, những truyện “siêu hình”, và ông là một nhà văn siêu hình, vì đằng sau mọi truyện của ông đều thấp thoáng những ý niệm…

Jorge Luis Borges(1899-1986)
Câu chuyện này được kể ở Junín hay Tapalaqué gì đó. Một cậu bé biến mất sau một trận đột kích của thổ dân da đỏ; người ta đồn rằng những người da đỏ đã bắt cóc nó đi. Bố mẹ nó đã ra sức tìm kiếm nhưng vô ích. Nhiều năm sau đó, một người lính về từ rừng sâu kể cho họ nghe về một thổ dân da đỏ có đôi mắt màu xanh da trời, và rất có thể người đó chính là con trai của họ. Cuối cùng họ cũng tìm được người này (câu chuyện thiếu rất nhiều chi tiết, mà tôi thì lại không muốn bịa ra những gì tôi không biết) và đinh ninh rằng họ đã nhận được con. Chàng thanh niên, lớn lên từ đời sống hoang dã và man rợ, không còn có thể hiểu được tiếng mẹ đẻ của mình, nhưng cũng lãnh đạm, ngoan ngoãn, để mặc cho người khác dẫn về đến nhà. Đến nơi, anh dừng lại (có lẽ vì những người kia cũng dừng lại). Anh nhìn vào cánh cửa, gần như ngơ ngác. Đột nhiên anh cúi đầu xuống, gào lên một tiếng, rồi chạy nhanh đến lối ra vào và băng qua hai khoảng sân dài, xông thẳng vào nhà bếp. Không do dự, anh thọc sâu bàn tay vào bên trong cái ống khói đen nhẻm rồi lôi ra một con dao nhỏ làm bằng sừng mà anh đã giấu ở đó khi còn là một cậu bé. Đôi mắt anh ánh lên vẻ hạnh phúc, còn bố mẹ anh thì ứa nước mắt, bởi họ đã tìm lại được đứa con trai của mình.
Có lẽ sau hồi ức đó thì những hồi ức khác tiếp tục sống lại, nhưng anh chàng thổ dân không thể nào sống một cuộc đời tù túng giữa bốn bức tường, và một ngày kia anh lại ra đi tìm về đời sống hoang dã của mình. Tôi muốn biết anh đã nghĩ gì trong cái khoảnh khắc choáng váng khi quá khứ và hiện tại trộn lẫn vào nhau; tôi muốn biết liệu đứa con bị thất lạc đã được tái sinh và đã chết ngay trong giây phút ngây ngất đó, hay anh đã có thể, ít nhất như một đứa trẻ hay như một con chó, nhận ra được bố mẹ mình và ngôi nhà của mình.

Tranh Paul Klee – nguồn artforsaleamerica-com
Dịch từ bản tiếng Anh “The Captive” của Andrew Hurley, trong Jorge Luis Borges, Collected Fictions (New York: Penguin Group, 1999).
trích từ nguồn website tienve.org