Ngoài ra, trong làng còn có thêm hai ngôi chùa Ông, một tọa lạc tại chợ Cũ, chùa khá lớn và một tại vàm rạch Bờ Cao nằm trên hương lộ chánh của làng; chùa này lợp lá còn nghèo. Về đình làng, làng Tân Bình có một ngôi đình thờ Thần Thành Hoàng nằm ngay giữa làng trên trục lộ chánh, cách chợ Lấp Vò khoảng hơn ba cây số; ngoài ra chỗ giáp nước Gia Vàm có ngôi đình nhỏ của xã Tân Thạnh cũ, nay vẫn còn như một di tích lịch sử của làng Tân Thạnh. Từ khi có làng Bình Thạnh Trung thì việc thờ cúng Đình Thần là cúng ở đình chánh như vừa kể.

Mặt tiền Đình thần làng Tân Bình nay là làng Bình Thạnh Trung. Trước đình làng xây cất bằng cây ván, mãi tới năm 1969 mới được trùng tu lại với gạch ngói.Trước sân đình nay là cái chợ nhỏ trong làng. Hình: Tr Nh và Kh
Những năm 1955 tới sau này, mặc dù đình làng có ông Từ giữ đình lo việc nhang đèn cúng kiếng hằng ngày nhưng vì nơi thôn quê vắng vẻ nên có thể có trộm cắp sắc thần, một mình ông Từ nhiều khi không giữ nổi sắc thần nên Ban Tế Tự Đình Thần quyết định thỉnh sắc thần về thờ ở nhà chú Bảy Cảnh, lúc bấy giờ chú giữ chức Xã Trưởng trong Ban Tế Tự, được ví như con út của ông Thần vì Xã Trưởng chịu trách nhiệm về việc tổ chức cúng Thần vào những lệ cúng kiếng hằng năm; nhưng mấy năm sau Ban Tế Tự Đình Thần lại đồng ý với nhau là nên thỉnh sắc thần về thờ nơi chùa Tân Phước Tự (Rạch Dược) để giảm bớt trách nhiệm cho chú Bảy. Thế nên mỗi khi làng cúng Kỳ Yên vào Tháng Ba âm lịch hoặc lễ Thượng Điền, lễ Hạ Điền hằng năm thì thường Ban Tế Tự tổ chức rước sắc Thần từ chùa Tân Phước (Rạch Dược) về Đình làng để làm lễ cúng bái.
Hồi đời trước, những năm chạy giặc trở về khoảng 1955, 1956, 1957…, những năm còn thanh bình, mỗi lần cúng Kỳ Yên, Ban Tế Tự đều có rước gánh hát bội về hát cho dân làng coi. Ngoài ra, chùa Tân Phước Tự (Rạch Dược) vào những năm ấy cũng có tổ chức mở trai đàn vào dịp rằm Tháng Bảy, có mô tô bay, có hát bội, và nhiều trò vui chơi giải trí khác nữa như múa lân, đánh banh, ảo thuật. Dĩ nhiên bà con trong làng có tổ chức che trại mở hàng quán xung quanh sân chùa bán thức ăn cùng nước giải khát cho bà con đi cúng chùa và xem hát bội. Những dịp lễ lạt như vậy dân quê mừng vui và đi coi hát đông lắm! Dĩ nhiên rồi, các nơi chùa chiền và đình làng như vừa kể là những nơi tôn nghiêm và thiêng liêng để dân làng có nơi tới cúng vái Trời Phật Thần Thánh vào những ngày đầu năm Tết âm lịch, những nơi không thể thiếu trong đời sống tâm linh của dân làng sau những ngày làm lụng vất vả với công việc đồng áng suốt một năm dài…

Bệ thờ trước sân đình làng Tân Bình nay là làng Bình Thành Trung. Hình: Tr Nh và Kh
Qua lịch sử hình thành làng Tân Bình như vậy, ngay từ những năm đầu theo ông bà xưa kể lại là lúc mới lập làng thường là chưa trồng cam quýt được mà chỉ trồng các loại hoa màu phụ như mía, đậu xanh, đậu nành, bắp và các giống rau cải là những loại dễ trồng và thu hoạch các vụ mùa với thời gian ngắn hạn vì đất chưa cao. Vì là vùng đất ngập vào mùa nước lên Tháng Bảy kéo dài tời gần cuối Tháng 11 âm lịch nên muốn lập vườn trồng cây ăn trái như xoài, cam, quýt, ổi, mận cùng các loại cây ăn trái khác là phải trải qua nhiều năm tháng đào mương lấy đất lập vườn. Thành ra, miếng vườn nào ở nhà quê làng Tân Bình cũng như nhiều làng khác dường như có điểm giống nhau là phía trước vườn là rạch, hai bên hông là mương vườn và phía sau là một ao rộng. Trên nền vườn ấy thường thường chủ vườn dành một khoảng đất trống để cất trại giữ vườn, nền trại thường nằm nơi góc vườn, ít khi nằm ngay giữa vườn; nếu vườn rộng có người còn đắp một nền cao và cất nhà luôn trên miếng vườn ấy nữa.

Cầu ván ngã ba Gia Vàm-Thủ Ô nơi làng Tân Thạnh cũ do dân làng góp công bắc năm 1990, nay cũng bị thay bằng cầu đúc.
Việc đào mương lập vườn có hai cách là đào bằng len nếu đất mềm và gần; trường hợp đất cứng và xa thì người ta phải dùng cuốc và gánh đất bằng đôi ki đem đất từ dưới sâu lên bồi thành nền vườn. Vì làm bằng sức người với đôi ki và cuốc như vậy nên một miếng vườn thành khoảnh phải mất rất nhiều công sức và thời gian, có khi phải mất nhiều năm trời mới thành vườn được. Đó là chưa kể, cứ mỗi năm tới mùa nước ngập khi mức nước lên cao nhất người ta căn cứ vào mực nước ấy mà lo bồi bổ thêm những chỗ nào đất còn thấp để cho vườn khỏi bị ngập nước.
Với ba bên bốn bề của một miếng vườn là mương và rạch như vậy có nhiều công dụng. Trước nhất, là nước chứa nơi các mương dùng để tưới vườn. Ao sau vườn thường thường nhà vườn nào cũng nuôi cá trắng dưới ao; còn mương vườn hai bên hông thì thả lục bình cho cá dưới sông có nơi trú ngụ; còn rạch trước mặt vườn thường tháng hạn, nước cạn rạch, người ta mướn người vích đất dọc theo bệ vườn để dự trữ cho đất khô ráo phèn hầu dùng trong việc thay đất cũ và bồi đắp vun bón các gốc cây đất bị cằn cỗi. Thông thường nhà vườn nào mỗi năm cũng đều luân phiên nhau đào đất cũ nơi các gốc cây nào thấy không xanh tốt và thay đất mới cho cây cối sung túc.

Học trò làng Tân Bình năm 2005