“Những ngày đầu Tháng Chạp gió bấc se lạnh. Ở nhà quê vào mùa này, sáng nào người ta cũng thức dậy sớm ngồi bên bếp lửa với những gốc củi mục cầm lửa làm cho không khí trong nhà ấm lạ. Cái mùi thơm thơm của khói bốc lên bám vào áo quần, da thịt những người nhà quê như có chút gì báo hiệu những ngày cuối năm nơi Tháng Chạp này sắp vào mùa đón Tết Nguyên Đán lại về.” (*) Lúa nếp nàng hương, nếp than, đặc biệt là nếp “thằng Chệt” với đuôi dài thơm cơm mềm gạo (*) bắt đầu ửng chín, khi làng Lấp Vò chuẩn bị đón Tết. Người chộn rộn giã gạo làm cốm dẹp, cắt vội mấy công đất gò để có lúa bán lấy tiền sắm quần áo. Người lo ngắt lá mai, chăm vườn vạn thọ, vườn cúc đại đóa, để có hoa bán vào cuối năm. Người nhìn cây xoài trổ bông, nhìn liếp dưa hấu da xanh căng tròn, biết sẽ có trái đầu mùa ăn Tết. Người dỡ chà, hay tát mương tát đầm kiếm cá. Trẻ em hái sung để chị mang ra chợ bán. Trái cây đủ bộ “cầu, sung (túc), đủ, xài (xoài),” (*) như thế đối với người nhà quê đã là tốt đẹp. Rồi thì lo bẻ cam hái quít “cúng ông bà ba ngày Tết, sau cho chúng ăn đã thèm và chiều 28, 29 Tết đem biếu cho chòm xóm…” (*) Đất lề quê thói trong những ngày cận Tết của cư dân Lấp Vò nói riêng, của người miệt vườn nói chung, được nhà văn Lương Thư Trung miêu tả thật sống động. Không chỉ có “Mùa Màng Tháng Chạp,” mà còn có “Mùa Cắt Lúa Và Đạp Lúa,” “Mùa Bông Súng, Bông Sen,” “Mùa Giăng Lưới,” “Mùa Cá Dại, Chất Chà,” “Mùa Xuống Bửng, Đặt Lọp, Và Đặt Lờ ”…v.v… Bất cứ ai dù chưa bao giờ về lục tỉnh, cũng có thể nhìn thấy bức họa đồng quê hiện ra trong trí tưởng, cũng có thể biết sự khác biệt giữa lọp và lờ, cũng có thể biết làm vành lọp như thế nào, cũng có thể biết cây dây choại dùng để làm gì, sau khi đọc “Mùa Màng Ngày Cũ.”
Bằng giọng văn hiền hòa, mộc mạc, đậm đà chất Nam Bộ, nhà văn Lương Thư Trung giới thiệu hoàn cảnh sống, phong tục tập quán của người miệt vườn sống trong những thôn làng xóm nhỏ ở Miền Tây. Đời của họ gắn liền với đồng ruộng, với sông nước, với con rạch, với cây cầu khỉ lắt leo. Không kể Lời Tựa, Lời Kết, Phụ Lục, “Mùa Màng Ngày Cũ” gồm 21 phần ghi lại sinh hoạt đời thường của nông dân miền Nam tùy theo các mùa, như mùa xoài, mùa bông súng bông sen, mùa giăng lưới, đặt lờ, cày bừa, phát cỏ, làm lóng tát mương, sạ lúa, xúc lùm, nhảy hùm, quậy đìa, làm mắm, làm khô …v.v…Họ sống hòa với mưa thuận với nắng, tự lực cánh sinh, an phận thủ thường, không đua đòi se sua, lấy câu “tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc” (1) làm châm ngôn. Chính vì thế tâm hồn của họ phóng khoáng, bao dung như trời đất.
Nhà văn Lương Thư Trung – còn có bút danh là Hai Trầu – sinh năm 1942, người làng Tân Bình, huyện Lấp Vò, tỉnh Sa Đéc. Ông từng là nhà giáo, nhưng sau năm 1975 đã về quê làm ruộng. Năm 1992 ông và gia đình sang định cư tại Hoa Kỳ, thường trú tại Houston, Texas. Ngoài “Mùa Màng Ngày Cũ” viết theo thể bút ký thuật sự dày 287 trang, do Thư Ấn Quán in năm 2011, ông còn có những tác phẩm nổi tiếng khác, như “Bến Bờ Còn Lại (2000),” “Tình Thầy Trò (2005),” “Lá Thư Từ Kinh Xáng (2005).” Sinh ra và lớn lên tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhà văn Lương Thư Trung tự nhận mình là nông dân, vì có nhiều năm làm việc đồng áng, ruộng vườn. Chính vì thế khi viết về hoa đồng cỏ nội, ông mô tả rất tỉ mỉ và hấp dẫn. Thí dụ như nói về mùa xoài, ông không chỉ giới thiệu mùi hương đặc biệt của bông xoài, mà còn kể ra chu trình sinh hoa kết trái – từ lúc xoài mới đậu trái cho đến khi dần chín. Qua lời kể của ông, độc giả còn biết ngày xưa xoài bán tính theo một chục 10 trái, hay một chục 12, 14, 16, 18, 20 trái…Nhưng bây giờ lại bán theo kí lô….
Thật thủng thẳng ba điều bốn chuyện, nhà văn Lương Thư Trung dẫn đưa người đọc trở về đồng ruộng của Miền Tây Nam Bộ thuở thanh bình – những ngày tác giả cùng bạn hữu xúc cá lùa tôm xong, rủ nhau lên bờ ngồi xem dòng dọc làm tổ. Thời bông sen bông súng nở ngát hương ngày hè; thời giăng câu đêm sương rơi nằm chờ trăng sáng, chiều tát đìa bì bõm; thời hòa nhập với thiên nhiên mà tác giả viết ra với cả tâm tình, nay có còn không…? Hay tất cả đã biến động theo vận nước nổi trôi…? Chỉ còn lại những hoài niệm gửi gắm trong “Mùa Màng Ngày Cũ.”
HNP – 4:06pm Thứ Năm ngày 23 tháng 1 năm 2014
(*). Trích từ “Mùa Màng Tháng Chạp.”
(1). Thơ Nguyễn Công Trứ, có nghĩa: Biết đủ là đủ, mong đủ bao giờ mới đủ.