Menu Close

Nhà thơ Thành Tôn với thơ lục bát và lòng yêu quý sách

Thành Tôn sinh ở Quảng Nam, học trường trung học Trần Cao Vân, Tam Kỳ. Anh cùng thời với Nguyễn Nho Sa Mạc, Huy Tưởng. Nhập ngũ, ra trường Thành Tôn làm việc ở tiểu khu Quảng Tín.

Anh nổi tiếng từ khi đăng thơ trên Bách Khoa, trên Văn và khi xuất bản tập thơ Thắp Tình (1969).  Sang Mỹ năm 1996, Thành Tôn vẫn thủy chung với văn chương chữ nghĩa, mặc dầu không làm thơ như xưa nữa.

Về thơ lục bát của Thành Tôn, nhà thơ Du Tử Lê viết trên Người Việt Online:

“Với tôi, những vần lục bát của Thành Tôn trước hay sau thời điểm “Thắp Tình,” 1969, vẫn là chiếc bóng hiu quạnh nhưng, chứa chan đôn hậu. Dịu dàng thương yêu. Chúng như một thứ nhân-thân khác của thi sĩ.

Do đấy, ở Thành Tôn, tôi không nghĩ, có một khác biệt hay đối lập, tách bạch nào giữa chiếc bóng thi ca và nhân thân tác giả.

Thành Tôn và, chiếc bóng (chữ nghĩa) của ông là một. Người này là…“thuộc tính,” là “bản lai diện mục” của kẻ kia.

Tôi cho đây là một điều đáng kể và cũng rất đáng quý vì nó nói lên phần nào đó cái nhân cách mà, tôi muốn gọi là nhân-cách-thi-ca của một thi sĩ.”

alt

Nhà thơ Thành Tôn – tranh Đinh Cường

Dạo sau này Thành Tôn không làm thơ nữa. Anh nói: “Làm thơ như vậy đủ rồi. Bây giờ mình thấy làm thơ không hay, thôi không làm thơ nữa”. Nhận xét về điều này, nhà thơ Trần Yên Hòa của website Bạn Văn Nghệ viết: “Tôi biết Thành Tôn muốn người đọc hãy đọc những bài thơ của anh ngày cũ trong Thắp Tình, để thấy một vóc dáng thơ Thành Tôn. Như người đàn bà đẹp chỉ muốn người ta nhìn ngắm nhan sắc mình khi còn tuổi xuân thì phơi phới…”

Bây giờ thì Thành Tôn chỉ đọc và nghiên cứu sách. Vẫn lời Trần Yên Hòa:

“Có thể nói anh là một người có đầy đủ sách nhất. Điều này tôi chỉ biết qua nhận xét của tôi thôi. Anh mua đủ loại sách, dù có những quyển sách anh không thích nhưng anh vẫn mua về để làm tài liệu. Những sách cũ của các tác giả xuất bản ở VN truớc 1975, qua cuộc đổi đời 75, khi ra đi không mang theo đuợc. Thế mà hỏi Thành Tôn, anh lại có, như những tập thơ của Du Tử Lê chẳng hạn. Khi Du Tử Lê in toàn tập thơ Du Tử Lê, Thành Tôn đã cung cấp cho Du Tử Lê những tập thơ cũ mà Du Tử Lê không còn. Hay bây giờ, nếu một bạn văn nào đó cần tài liệu cũ, Thành Tôn đều có và cho mượn ngay. Đến nhà anh, anh cho xem những tác phẩm của các nhà xuất bản An Tiêm, Ca Dao, Lá Bối… mà anh đã đem theo và còn cất giữ, mới thấy được hết tấm lòng của Thành Tôn đối với chữ nghĩa, sách vở. Anh kể, khi anh đi Mỹ, quan trọng nhất là 2 thùng sách anh mang theo, sau đó mới là những vật dụng cá nhân cho gia đình.

… Nhà thơ Thành Tôn còn cho thấy, ông luôn sẵn sàng chia sẻ, cho đi, những gì ông có. Dù đó là những cuốn sách mà ông sưu tầm, nâng niu, như những đứa con quý báu nhất của ông”.

Viết về tinh thần sẵn sàng cho đi, thậm chí cất công tìm kiếm từng tác phẩm, từng bài thơ (ít người biết), để đáp ứng nhu cầu của bằng hữu của Thành Tôn, nhà văn Trần Văn Nam viết  như sau:

“…Hỏi anh sưu tầm khi nào, anh cho biết khi ra khỏi giai đoạn ngồi tù cải tạo năm 1983, anh đã đi lục lạo ở các vỉa hè bán sách cũ ở Sài Gòn, và đã thu gom được hai va-ly chỉ đựng toàn sách báo cũ để chuẩn bị đi ra nước ngoài theo chương trình HO (không rõ anh đến Mỹ năm nào). Nhờ vậy anh đã cung cấp một số tài liệu hiếm cho nhà xuất bản Thư Ấn Quán của nhà thơ Trần Hoài Thư làm nên một phần đóng góp đáng kể cho bộ sách gồm 2 cuốn dầy trên 1550 trang ‘Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến’; và bộ sách gồm 4 cuốn ‘Văn Miền Nam Thời Chiến’ tổng cộng 2,300 trang, và còn nhiều bộ sưu tập văn thơ miền Nam khác nữa như ‘Thơ Tự Do Miền Nam’; ‘Một Thời Lục Bát Miền Nam’; ‘Thơ Tình Miền Nam’… Rải rác có những bài báo cũng đã nhắc nhở tài liệu hiếm được anh Thành Tôn cung cấp. Riêng người viết cũng xin cám ơn anh về những tạp chí, sách… những tưởng chẳng bao giờ có lại được thì đã được thu hồi với hình dáng như xưa, dù chỉ là bản copy với nhiều nhạt phai hoặc sứt mẻ sau gần 30 năm không thấy mặt (3).”

Với người giữ mục này, Thành Tôn cũng đã gởi tặng bản sao bài thơ Lễ Nghi của Hoàng Anh Tuấn đăng trên Văn ngày nào mà mình không nhớ hết. Cám ơn Thành Tôn.

NGUYỄN & BẠN HỮU – Tổng hợp
Một bài thơ của Thành Tôn

Nói với cô bé ngồi quán
                           Tặng các bạn Hội quán: Đán, Lâm, Danh

Vào đây, ghế quạnh, khuya người
Quán như địa phủ, nhạc đời nhân gian
Quầy trơ, mắt bé ngỡ ngàng
Thuyền ai đổ bến, lòng nàng bâng khuâng
Hồn ta trải gió đầy sân
Tình ta, mây cũng mấy lần thu nao
Vào đây bàn nhẵn, câu chào
Quen như thân thể, lạ nào chén ly
Đời nhau, khói thuốc quên đi
Bên tai cổ nhạc lầm lỳ canh tân
Trên kia dáng bé tần ngần
Lời yêu chậm nói, tình gần tay trao
Vào đây đèn đủ hanh hao
Bóng ai theo đến kẻ nào quay lui
Cuối đời trên chén ly, khuya
Mắt nhau một hướng, tình chia mấy trùng
Ngồi thầm, góc quán mông lung
Xa nghe lời kẻ, gần chùng dáng ai
Vào đây nhạc đĩa đầy vai
Vòng quay nhịp lặp, kim mài giọng quen
Mòn hao sợi tóc trăm năm
Khuya, mưng máu chậm. Tình, bầm tim mau
Ngậm lòng, quán vắng, ơn nhau
Ly trơ ghế nóng, bé chau mắt nhìn
Vào đây như một đức tin
Khói tan đốm thuốc, đời vin tay nào
Miệng cười kín nụ lao đao
Tình chia nghĩa sớt, câu chào riêng ai
Trách gì ý lỡ, lời sai
Cho nhau góc quán đêm dài dung thân
Thôi em trả đó tình gần
Ta xin bóng chiếc, đời cần nhau, đâu ?
Vào đây, ghế quạnh, khuya nhàu
Tình như cổ tích đời sau kể thầm.

(Nguồn: Thơ Tình Miền Nam. Thư Quán Bản Thảo 2008)