Trời đang độ cuối thu đầu đông. Mùa Noel đang kéo tới nhộn nhịp. Năm nay trời lạnh sớm hơn mọi năm. Sau Lễ Tạ Ơn, trận cold front đầu tiên của mùa đông đã đến, mang theo cơn mưa dầm kéo đến những hai ngày dài. Nhưng không sao thành phố sau cơn khô hạn dai dẳng mùa Hè vừa qua đang bị thiếu nước trầm trọng, đang cần nước, đang cần thật nhiều nước. Ngoài chợ sau ngày Black Friday, Christmas sales đang đổ ra rầm rộ. Cửa tiệm đã giăng đèn màu và cây thông Noel đã được dựng lên.
Lá vàng rơi rụng… Mùa Thu tàn… Mùa Đông đến… Cơn gió bấc thổi…
Những cơn gió bấc gợi nhớ trong tôi một thành phố, một phần đời và những cảm giác mang mang của những lần trở về quê khi xưa. Lần sau cùng tôi về quê đã hơn một phần tư thế kỷ; nhưng cơn gió bấc ngày đó hình như đã theo tôi di cư sang Mỹ ở hẳn vào mỗi năm cuối thu trời đổ rét. Quê tôi một thành phố nhỏ, khiêm nhường, nếu không muốn nói nghèo, nơi tôi được sanh ra và lớn lên. Tôi rời thành phố đã nhiều năm nhưng chưa có dịp trở về. Sau bao nhiêu năm, thành phố nhỏ ngày xưa đó chỉ còn lại một khoảng ký ức.
Những biểu tượng của một thành phố nghèo cũng chẳng được bao nhiêu. Chiếc cầu quay bắt từ con lộ chính dẫn vào thành phố, vắt ngất ngưởng ngang con kinh xáng nước đục màu phù sa vàng. Mặc dù cũng có những tà áo dài trắng bay bâng khuâng trong nắng chiều, với những chiếc nón lá che ngang khuôn mặt xinh xinh, nhưng chiếc cầu quay của thành phố chưa đủ lãng mạn để tạo được những chuyện tình nên thơ. Chiếc cầu cũng chưa hề bị gãy nhịp lần nào, nên khó gây được nỗi thương cảm hay niềm mến tiếc trong lòng người như chiếc cầu Tràng Tiền của Huế.
Biểu tượng của thành phố có thể là ngôi trường Tỉnh Lỵ chăng? Ngôi trường tuy đơn sơ cũ kỹ nhưng dệt được nhiều kỷ niệm và đã ghi lại khá nhiều chuyện tình học trò đáng nhớ cũng như đáng quên của một thời lãng mạn. Hay ngôi nhà thờ duy nhất trong thành phố? Ngôi nhà thờ chiều chiều nhờ gió quyện, đưa đi tiếng chuông ngân nga lan đi khắp nẻo, nhưng vẫn chưa đủ để tạo một không khí uy nghi.
Những ký ức thường gần gũi với nơi chúng ta sinh ra và lớn lên hơn, đó là ngôi nhà của mình. Ngôi nhà nơi tôi sanh xa phố chợ nhưng vẫn thuộc về thành phố. Ngôi nhà gần đình Tân Hưng. Lúc tôi vừa lớn đủ trí khôn để nhớ, mỗi năm tới Tết trong dịp lễ Kỳ Yên, đình Tân Hưng che rạp hát bội ngoài sân. Tiếng phèn la đang đêm thúc giục, bà Phàn Lê Huê hay cổ động ông Trương Phi vọng sang nghe inh ỏi.
Đó là ngôi nhà trệt lợp ngói, có hàng rào cây đóng thưa sơn trắng, có hai chậu mai tứ quí Tết về nở rộ những cánh hoa vàng và một chậu mai chiếu thủy với những chùm hoa trắng nhỏ thơm dịu dàng khi cơn gió bấc thoảng qua. Ngôi nhà, có hàng hiên nhỏ lót gạch, mỗi buổi chiều ba tôi hay trải chiếc ghế bố xếp ra nằm đọc báo chờ bữa cơm tối.
Thành phố có được hai rạp chiếu bóng. Tôi nhớ những buổi chiều mưa vừa tạnh, sau bữa cơm tối vội vàng, tôi hớn hở theo anh chị tôi lên rạp coi phim Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài. Trí óc non nớt của tôi vẫn còn nhớ hồi kết cục của một cuộc tình buồn. Ngôi mộ chàng Lương mở đôi với hình bóng chàng đứng đợi chờ. Nàng Chúc không chút đắn đo chạy vào theo người yêu. Cánh cửa mộ khép lại, vướng hai mảnh vải áo của chàng và nàng. Khi đứa tiểu đồng kéo ra, hai mảnh vải thô biến thành đôi bướm bay về chốn vô định.
Đêm vãn tuồng trên đường về mặc dầu chưa tới giờ giới nghiêm nhưng trời tối đen. Vài ánh đèn mờ hắt ra từ song cửa sổ của những căn nhà đã khép ngõ. Con đường lởm chởm. Những ổ gà được đổ đầy nước từ cơn mưa ban chiều, giờ đây đã trở thành cạm bẫy chỉ chờ cho bàn chân nhỏ dại của tôi lầm bước, giẫm lên và hụt hẫng.
Lâu lâu có mấy đoàn cải lương kéo về đổ ở rạp cải lương duy nhứt của thành phố nằm gần nhà tôi. Từng dãy xe hàng nối tiếp nhau đậu dọc con lộ trước rạp. Nhộn nhịp những anh phu khuân vác, cũng có lẽ là kép phụ trong đoàn, khệ nệ khuân thùng dụng cụ, những phong vẽ cảnh, bức màn nhung.
Buổi chiều tôi thường ra phía sau bên hông rạp đứng nhìn người trong đoàn hát nấu từng đụn cơm to. Đứng nhìn những nghệ sĩ chờ thời – những người thích sống giang hồ kiếp Bohemian – đang quây quần bên mâm cơm đạm bạc. Đứng nhìn đám khán giả ái mộ đang hào hứng đón chờ kép Hùng Cường, hay kép Thành Được, hay cô đào Thanh Nga đi vội vào hậu trường. Cũng ở rạp hát nầy, Tết Mậu Thân tôi trực diện cuộc chiến, chạy trong bom đạn và chết chóc lần duy nhứt trong đời.
Để được yên ổn hơn, gia đình tôi dời về căn phố ngay đầu ngôi chợ của thành phố vào năm đó. Ngôi chợ ngày đó cũ kỹ, với mái ngói đen thâm mất mát được vá vụn bằng mấy tấm tôn cũng đã rỉ sét. Căn phố nằm ở hướng đông của ngôi chợ nhà lồng dọc ngay bên cạnh khuôn viên của khu chợ. Bắt đầu từ ngã ba trước cửa nhà tôi, trên con đường chính chạy ngang qua cửa chợ là bãi đậu xe xích lô. Những câu chuyện trao đổi giữa các ông phu xe thường hay xen lẫn rất tự do tiếng chửi thề tục tĩu như để giữ thăng bằng cho cuộc sống cùng cực.
Tranh BẢO HUÂN
Tờ mờ sáng từ trên lầu tôi có thể nghe tiếng chân trần và nhịp gánh kẽo kẹt của mấy người đàn bà gánh cải từ xóm Miên đổ về cho buổi chợ mai. Tiếng máy xe lôi từ quốc lộ Bốn chở những thùng cá lóc tát từ đìa dọc hướng Phú Lộc đổ về chợ nổ rang. Trời sáng dần và những mảng đối thoại xì xào cũng to dần. Âm thanh chợt bùng to lên khi tiếng loa phóng thanh của ty thông tin bắt trên ngọn cột đèn đầu chợ vọng về những bài hát của cục chính huấn, “Tổ quốc vấn khăn tang, mây đen che phủ …”. Tiếp nối ty Thông tin của thành phố đọc những thành quả các trận đánh và tin tức trong ngày.
Chợ từ từ đông dần. Những rổ rau cải tươi của mấy người đàn bà Miên quê mùa hiền hòa bày bên cạnh đống khoai sắn đổ la liệt trên mặt con đường nhựa của những bà bạn hàng. Nắng lên cao trời nóng dần. Sức nóng thỉnh thoảng như tưới thêm sinh lực cho một trận cãi vã giữa hai bà bạn hàng tranh nhau một mối khách đang ra rả. Những lời chửi bới nầy không kém phần thô tục.
Vào ngày rằm hay mồng một, mặt con đường nhựa tươi hơn. Bên cạnh những rổ rau, có thêm những đóa bông vạn thọ vàng hay những chùm bông mào gà tím hoặc bó bông trang đỏ góp nhặt từ một gốc vườn nhà nào đó. Những bông hoa thôn dã nầy đã góp thêm vào chút lợi nhuận cho một gia đình nghèo ở làng quê kế cận thành phố.
Cũng ở góc chợ nầy, lần đầu tiên trong đời tôi được nghe tiếng đàn độc huyền cầm. Tiếng đàn được lảy ra từ một sợi dây đồng độc nhứt căng ngang trên chiếc thùng gỗ cũ kỹ nghe ngộ nghĩnh làm sao. Một lão già mù khòm chiếc lưng gầy đang tay đẩy, tay khẩy, những nốt nhạc ngũ cung bắt đầu cho một bài hát xàng xê. Như chưa đủ, lão già ngửng mặt lên, giương đôi mắt mù sâu thẳm lấy hơi và bắt đầu cất tiếng hát giọng khàn khô tội nghiệp. Thỉnh thoảng được những đồng bạc giấy của khách đi ngang qua dúi vào tay, ông lão lí nhí tiếng cám ơn.
Hình như đến theo mùa, vào khoảng Noel đến Tết ta, khi ngọn gió bấc thổi hiu hiu về, có một người đàn ông đến góc chợ bày bán dầu phong. Ông ta ngồi xổm sau một lò đất đốt than đỏ và một nồi nhỏ đặt lên trên, nấu một thứ nước màu xanh lá. Chung quanh ông mớ chai lọ chứa thứ nước cùng màu chất ngổn ngang. Ông oang oang cất tiếng quảng cáo về dược phẩm của mình, “Dầu phong dầu gió đây! Chuyên trị bá bịnh! Con nít đau bụng hay ấm đầu…”
Đôi khi cũng vào mùa nầy có một ông “khách trú” với giọng Việt lơ lớ rao bán thuốc dán và thuốc cao. Như để chứng minh công hiệu cầm máu của thuốc dán, ông vừa rao quảng cáo vừa đưa con dao nhỏ cắt vào ngón tay chai cứng của mình. Trên vết cắt đang rỉ máu ông đắp lên một miếng cao đen, chặp sau ông giở miếng cao ra và vết cắt trên ngón tay ông máu đã ngừng chảy. Vài người vây quanh mua mấy hộp cao. Chú ý kỹ hơn, trên ngón tay ông đã đầy những vết xẹo, dấu cắt của những ngày trước, những tháng trước hay những năm trước.
Góc chợ bớt nhộn nhịp sau đợt phóng thanh buổi 12 giờ trưa của ty Thông tin và đến chiều thì trống lần. Trên con lộ những chiếc xe ba gác bắt đầu đẩy kéo, dọn hàng, hay chở đầy giỏ trái cây từ miệt vườn đổ về – Thành phố không tự cung cấp được trái cây, từ những thứ thông thường như cóc ổi để ăn vặt, tới những loại đắt tiền hơn như mận, như dâu. Vùng đất lợ tân bồi sau hơn trăm năm khai phá đã thuần thục với những cánh đồng lúa ngút ngàn, nhưng chưa đủ “ngọt” cho những vườn cây ăn trái. Phù sa phì nhiêu của sông Cửu Long trộn lẫn trong nưóc biển lợ thành một thứ đất phèn màu nâu vàng với hứa hẹn một ngày nào sẽ trở thành thứ đất thịt màu mỡ mà những thế hệ di cư lót đường đã tin tưởng và đã ra công “rửa phèn” cho những thế hệ nối tiếp.
Cũng ở góc chợ nầy khoảng xế chiều tôi thấy anh ta. Tôi cũng không rõ gốc gác anh ta. Anh kéo xe ba gác. Người ta gọi anh là Văn Hường vì anh có nét mặt giống danh hề Văn Hường. Tôi công nhận anh trông rất giống hình Văn Hường được phóng to treo trước cửa rạp cải lương khi đoàn Kim Chưởng kéo về. Tôi chưa nghe anh nói chuyện bao giờ nên không biết tiếng nói của anh có giọng tiếu lâm như Văn Hường hay không.
Thường tôi thấy anh Văn Hường ngồi nghỉ dưới hàng hiên của căn phố đối diện nhà tôi để tránh ánh nắng buổi chiều gay gắt. Cơn nắng nhiệt đới đốt cháy da, cháy hồn. Khuôn mặt tay chân anh lúc đó đã lem luốc sau hơn nửa ngày cực nhọc kéo chiếc xe ba gác từ tờ mờ sáng giao hàng trong chợ. Anh ngồi phệt dưới nền xi măng xoải đôi chân và tựa lưng dựa vào bức tường vôi bạc màu bên hông căn phố. Ngồi trong lòng anh là một đứa bé gái khoảng ba hay bốn tuổi, đầu bù tóc rối và lem luốc cũng không kém gì anh, đang lim dim mắt ngủ. Anh vỗ nhẹ lên bờ vai nhỏ của nó, dỗ con giấc ngủ trưa. Đôi khi không ngủ đứa con gái leo lên vai anh ngồi đùa giỡn với mớ tóc rối bù của anh. Cha con trao đổi vài lời đối thoại, thỉnh thoảng cả hai cùng nhoẻn miệng cười, những nụ cười hiền hòa trao đổi qua ánh mắt yêu thương của cha con. Tôi không nghe được mẩu đối thoại của hai cha con, nhưng trông cảnh khắng khít của cảnh gà trống nuôi con thật chạnh lòng.
Nắng chiều xuống dần, bóng của dãy phố đối diện nhà tôi che hẳn lòng con đường nhựa trống. Sau một ngày của làm việc vất vả, của những giọt mồ hôi cực nhọc, đôi khi của những giọt máu đáng thương, quang gánh đã dọn đi còn trơ lại góc chợ vắng. Khi người phu quét đường đẩy đống rác to về cuối phố và khi các cửa hiệu đã khép cửa, anh Văn Hường mệt mỏi đẩy chiếc xe ba gác ngang qua nhà tôi đi về nhà. Tôi cũng không chắc anh có nhà hay không, hay đó chỉ là một cái xó trong một xóm nhỏ. Trong thùng xe trống đứa con gái nằm ngửa tréo đôi chân, ngây thơ nhìn những đám mây trắng lơ lửng trôi trên không trung. Những đám mây như những con cừu trắng, hay như chiếc áo bà ba trắng của mẹ nó, người mẹ thiếu vắng.
Lúc nào tôi cũng chỉ thấy anh Văn Hường mặc chiếc áo đó. Đó có lẽ là một chiếc sơ mi lúc còn mới, nhưng nay bâu áo và hai cánh tay áo đã không còn. Trên lưng và phía trước là những manh vá lấp trên những manh vá. Đùm đúm trên những mảng vá cũ tả tơi bay màu là những mảnh vá mới hơn còn giữ được phần nào màu sắc vải nguyên thủy. Gọi nó là miếng giẻ rách thì tội nghiệp cho anh. Nhưng gọi đó là manh áo thì tội nghiệp cho chiếc áo, vì nó đã không còn là chiếc áo từ lâu.
Có người nói cho tôi nghe anh vốn là một nông dân nghèo, nhưng sống khá yên ổn nhờ cần cù cày đám ruộng mướn trong kinh Huyện Sĩ. Gia đình anh sống hạnh phúc trong căn nhà nền đất do chính tay anh nện, chính tay anh kéo từng lớp lá dừa nước chẻ đôi, phơi khô lợp lên. Bên chái nhà có một thảo bạt nhỏ nơi vợ anh bày hàng keo nhỏ đựng bánh kẹo bán cho đám trẻ con trong xóm và đặt thùng máy may Singer cũ bên cạnh chiếc bàn gỗ thấp lãnh may áo quần cho người trong làng.
Cuộc chiến càng ngày càng ác liệt. Vòng hàng rào ấp chiến lược sơn trắng ở bên kia bờ kinh của thành phố được dựng lên. Bên nầy bờ kinh là vùng xôi đậu ban ngày lính Quốc Gia kiểm soát, ban đêm bộ đội Việt Cộng kéo về. Làng anh nằm bên vùng xôi đậu giữa bãi chiến trường của đôi bên. Năm đó trong một trận giao tranh tàn khốc ngôi làng bị cháy rụi. Vợ anh và hai đứa con lớn không may lọt vào giữa lằn đạn hai bên. Số tử vong của cuộc chiến từ đó có thêm gia đình anh. Mất quê, mất làng, mất căn nhà lá nhỏ, anh đã mất tất cả cho cuộc chiến.
Có người nói cho tôi nghe nhiều người tốt bụng trong xóm Lò Gạch cho anh vài chiếc áo cũ, nhưng anh không nhận. Anh chỉ nhờ họ vá lại cho anh chiếc áo cũ của anh. Chiếc áo do vợ anh may lấy những ngày còn khá giả. Ngoài đứa con gái, chiếc áo là kỷ niệm cuối cùng còn lại của những ngày hạnh phúc xa xưa.
Anh Văn Hường nay không biết đã trôi dạt về đâu. Bây giờ mỗi khi cơn gió bấc mùa thu thổi về ở Mỹ, còn trong ký ức tôi một thành phố nhỏ và chiếc áo ân tình.
CC
Đầu tháng 10, 2005
Viết lại tháng 12, 2011