Người kéo màn được viết với hình thức tiểu thuyết kịch, tức là dùng đối thoại để tạo hình ảnh và động tác tâm lý nhân vật thay vì dùng khuôn thức diễn tả thông thường. Phương pháp trình bày cũng gần giống như phương pháp viết kịch nhưng thay vì như trong kịch, các nhân vật chỉ nói và diễn xuất trong kích thước sân khấu, thì ở đây nó lại trải rộng ra giữa cuộc đời, các nhân vật được tự do đóng “vai trò thực” của mình trong một vị trí đã dành riêng cho họ giữa những trang sách.
Đời là trường kịch, Molière đã nói như vậy. Mỗi kẻ sinh ra đều phải chơi đúng vai trò của mình với phần vụ và trách nhiệm minh bạch. Kẻ nghệ sĩ, ngoài hoạt động thường nhật như mọi người, còn có một đời sống bên trong, đời sống của nội tâm cần phải tỏ bày. Cái chức năng của nghệ sĩ là vì đời mà dâng hiến những tinh hoa của riêng mình. Sự dâng hiến không phải để cầu xin ân huệ, mà phải được quyền tham dự vào sự dâng hiến đó. Nhưng việc đời đâu có giản dị như vậy. Nó được bủa vây và ngăn trở bởi những điều kiện thực tế, nghệ sĩ khó kinh qua, thảng như có kinh qua được, khi nhìn lại, cũng đã mất mát ít nhiều vốn liếng riêng tư.
Tác phẩm Người kéo màn đã nói lên sự thật, cái sự thật vô cùng chua xót mỉa mai khi nhìn thấy công trình sáng tạo của mình không còn thuộc về mình nữa. Nó được thành hình với những ti tiện, với sự lợi dụng lẫn nhau để mưu mô quyền lợi riêng. Vở kịch đem lên sân khấu, không do giá trị thực của nó, mà phải đi qua nhiều sự thực, không dự trù trong ý nghĩ nhà văn.
Nội dung Người kéo màn được trình bày như một bất lực của nghệ thuật mà người nghệ sĩ luôn luôn mang vóc dáng chàng Từ Thức cô đơn. Những khuôn mặt trình bày trong tác phẩm đều được vẽ rõ, rất rõ với nét chì đậm để người đọc nhận thức về phần mình từng chi tiết và hoàn cảnh biến động thích hợp. Tác giả chỉ còn là cái bóng mơ hồ, mờ nhạt trong hoạt cảnh sân-khấu-cuộc-đời. Nó có đó chỉ để phủ nhận vai trò của mình trong phạm trù đời sống.
Nhận định của các nhà văn về tác phẩm Người Kéo Màn
NGUYỄN ĐÌNH TOÀN: Nhật Tiến đã dùng một kỹ thuật mới mẻ đối với tiểu thuyết Việt Nam và rất thích hợp cho việc tạo không khí cho “Người Kéo Màn”, cuốn truyện liên quan nhiều đến sân khấu. Chuyện đối thoại xen lẫn đoạn tả cảnh, gồm có ngoại cảnh, trong hậu trường, trên sân khấu, sau cánh gà, trong phòng hóa trang, tại dàn nhạc, trong phòng xép, ở chỗ kéo màn, dưới hầm nhà..v..v…Mỗi góc cạnh đó tựa như mỗi cái cánh của chiếc chong chóng xoay tít trên một cái trục vô hình là cuộc đời.
DƯƠNG NGHIỄM MẬU: Trong “Người Kéo Màn”, chính kỹ thuật làm cho người đọc cảm đến rợn người lên về những khía cạnh “thực” chung quanh vở kịch “giả”, mà nếu diễn tả những chỗ đó ra có khi trở thành lố bịch, ngô nghê.
THƯỢNG SỸ: “Người Kéo Màn” là một tác phẩm rất khá, khá đủ mọi phương diện: bố cục chặt chẽ, văn viết gọn, sáng sủa, nhận xét sâu sắc, trình bày nhân vật mới mẻ, vô cùng linh động.
BÙI ĐÌNH: Thể tài này tuy không mới lạ gì với văn gia quốc tế, nhưng ở Việt Nam chưa ai dùng. Nhật Tiến đầu tiên đã dám sử dụng nó và biết sử dụng nó.
Giới thiệu mở đầu của Người Kéo Màn
NGOẠI CẢNH
Thời gian vào lúc sẩm tối. Con đường nhựa từ trung tâm thành phố dẫn đến nhà hát Trung Ương chạy qua những khu thương mại sầm uất rực rỡ ánh đèn và náo nhiệt người qua lại. Xe cộ chạy trên hai chiều nhộn nhịp. Những tà áo mầu phấp phới trong gió mát trên hè phố. Nhiều nhóm người đang rải rác đi về phía rạp hát. Có đôi vừa đi vừa ngả đầu vào nhau thủ thỉ. Có đôi dừng lại hôn nhau trong một góc tối. Tình yêu. Thanh bình. Thế thì phải chăng dĩ nhiên là có hạnh phúc ?
Rạp hát Trung Ương sừng sững chắn ngang ở cuối con đường huyết mạch. Đèn ở đây rọi chói lòa cả một khu vực rộng rãi bao la. Trên những bậc thềm đá từ hè đường dẫn tới cửa rạp, đã thấy xuất hiện nhiều hàng quà bánh xen lẫn với đám khán giả tới sớm tụ tập lố nhố. Bên cánh trái của cửa rạp hát, một tấm bảng quảng cáo rực rỡ nhiều mầu , trên vẽ một tấm màn nhung đã được kéo lên, chính giữa có một hàng chữ cực lớn, viết bằng những nét tài hoa, bay bướm:
Ban Kịch ÁNH SÁNG lần đầu tiên long trọng trình diễn: NGƯỜI KÉO MÀN kịch phẩm bất hủ của tác giả VĂN… ( gì đó )
Đằng sau chữ Văn lúc này không đọc được vì bị che khuất bởi bóng đen của cái đầu một thằng bé. Nó mới chừng lên sáu lên bảy, quần áo rách rưới, chân giẫm đất, một tay nó sờ soạng một cách tò mò trên tấm bảng quảng cáo, còn tay kia bị khoèo chỉ còn thấy đu đưa lúc lắc. Nó bé loắt choắt, cả cái chiều cao của nó chỉ với tới đúng vào cái chỗ có tên tác giả. Mầu sắc lòe loẹt như mê hoặc thằng bé. Nó thích thú xòe cả năm ngón tay ra xoa xoa lên lớp bột mầu. Những mảng mầu bong ra. Bàn tay thằng bé lấm lem và cái chữ đằng sau chữ Văn, tên của tác giả cũng bị nhòe nhoẹt. Vừa lúc đó, ở phía đầu kia của những bậc thềm có tiếng la bài hãi:
– Cưng ơi! Cưng!
Thằng bé hốt hoảng quay người lại nhớn nhác. Một tia sợ hãi vụt thoáng qua vẻ mặt xanh xao, hốc hác. Nó vội vã giơ cái bàn tay lấm lem bột mầu lên trước mặt, rồi sấn tới một đám người đứng ở gần đó, cất giọng lải nhải rền rĩ:
– Con lậy ông bà ! Con lậy ông bà ! Con tàn tật!
Vài người ở sát gần nó vội co cụm lại như tránh né để nó khỏi làm dơ bẩn bộ quần áo dạ hội lóng lánh những hạt cườm. Phía đằng kia vẫn có tiếng gọi, nhưng lần này mang vẻ nóng nảy, giận dữ hơn:
– Cưng ơi! Tiên sư cha thằng nhãi con mất biến đâu rồi ! Cưng ơi!
Trong chớp mắt, một mụ đàn bà xanh xao, quắt queo, một tay xách cái bị rách, một tay cầm cái roi tre xốc tới. Thằng bé tính vùng lên chạy nhưng đụng phải đôi mắt trắng dã, tóe lửa của mụ đàn bà nên nó dúm người lại, hai cẳng chân run rẩy như bị dính cứng.
Tuy thế nó vẫn thều thào được :
– Con lậy ông bà! Con lậy ông bà! Con tàn tật!
Mụ đàn bà bây giờ đã túm được nó. Mụ rê nó đi như người ta lôi một con chó ốm. Đến một góc tối, giọng mụ rít lên:
– Tổ cha nhà mày, ham chơi. Từ nãy được đồng nào chưa?
Rồi không chờ cho nó trả lời, mụ khoắng một cách thô bạo vào cái túi vải nhỏ đeo ở trước bụng của nó. Chẳng có một đồng xu teng nào trong đó cả. Điều này khiến cho mụ càng điên tiết lên hơn. Mụ quất bất kể chỗ nào lên mình thằng bé và lớn giọng:
– Sư mày! Sư mày! Chỉ là cái giống ăn hại, suốt từ tối mà chưa ra đồng nào. Mày mà còn thế nữa thì tao vặn nốt cái tay kia cho mày biết !
Vừa nói mụ vừa phết cho nó một roi quắn đít cuối cùng và đẩy nó ra khỏi bóng tối. Thằng bé bị du chúi đầu về phía trước loạng choạng suýt ngã. Nhưng nó gượng đứng vững lại được và lủi thủi đi về phía đám đông. Tiếng của nó lại rền rĩ cất lên:
-Con lậy ông bà! Con lậy ông bà! Con tàn tật!
