Nhà thơ, dịch giả Diễm Châu (1937 – 2006) là một trong những nghệ sĩ tài hoa lặng lẽ nhất ở miền Nam những năm chiến tranh.
Diễm Châu tên thật là Phạm Văn Rao, sinh năm 1937 tại Hải Phòng. Vào Nam năm 1953, ông theo học và tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn, ra trường dạy Anh văn, từng đi tu nghiệp tại Đại học Indiana, Hoa Kỳ, và có thời gian làm Giám đốc một trung tâm sinh ngữ thuộc Viện Đại học Sài Gòn.
Sự nghiệp văn học, báo chí và xuất bản của Diễm Châu thời trẻ gắn liền với hoạt động của nhóm trí thức khuynh tả ở miền Nam. Từ năm 1966, cùng với Thế Nguyên, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Phạm Cao Dương, Nguyễn Khắc Ngữ, Đỗ Long Vân…, ông ở trong ban chủ trương nhà xuất bản Trình Bầy. Trình Bầy là một trong những tờ tạp chí giàu chất trí thức và có khuynh hướng xã hội rõ rệt nhất ở Sài Gòn thời kỳ đó.
Là người am hiểu sâu sắc những trào lưu mới của văn học thế giới, Diễm Châu đã chọn dịch sang Việt ngữ những tác phẩm có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật: Nhà chung của Ferreira de Castro, Vâng ý cha của Fritz Hochwalder (cùng dịch với Thế Nguyên, Miền đất hung bạo của Jorge Amado…

Nhà thơ Diễm Châu
Thất vọng với chế độ Cộng Sản, Diễm Châu cùng gia đình định cư ở Strasbourg, Pháp quốc, từ năm 1983 cho đến ngày từ trần (28-12-2006), Diễm Châu dành nhiều thời gian và tâm sức để dịch và giới thiệu thơ nước ngoài ra tiếng Việt. Nhờ ông, bạn đọc Việt Nam có điều kiện tiếp xúc với thơ và tiểu luận văn học của những tên tuổi như Jorge Louis Borges, Antonin Bartusek, Umberto Saba, Ana Blandiana, Rolf Jacobsen, Ted Hughes, Fernando Pessoa, Johannes Bobrowski, Mahmoud Darwich… Đặc biệt, là người nhạy cảm với cái mới, Diễm Châu đã sớm nhận biết những tài năng lớn của văn học thế giới: ông đã dịch và giới thiệu Oe Kenzaburo 24 năm trước khi nhà văn Nhật này được Giải thưởng Nobel về văn học năm 1994. Gần đây nhất, vào dịp nhà thơ Thuỵ Điển Tomas Transtroemer được Giải thưởng Nobel về văn học năm 2011, chúng ta mới hay rằng trong khi tên tuổi tác giả này còn xa lạ với nhiều độc giả, thì thơ ông đã được Diễm Châu dịch ra tiếng Việt từ những năm 1980. Đến đầu thế kỷ XXI, Diễm Châu lại hoàn thiện bản dịch 17 bài thơ của Tomas Transtroemer.
Tuy nhiên, sáng tác thơ mới chính là lãnh vực thể hiện rõ nhất con người Diễm Châu. Bạn đọc ngày nay, nếu không sử dụng internet, thì ít biết về thơ ông vì hầu hết chỉ đăng rải rác trên báo chí ở miền Nam trước 1975 và trong các tập thơ đã tuyệt bản hoặc phổ biến hạn chế: Hạnh hoa; Sáng muôn thu; Việt Nam, Tổ quốc và em; Thơ Diễm Châu; Mười bài ở Paris và những mảnh rời. Thơ Diễm Châu là cảm xúc nồng ấm pha nỗi ngậm ngùi của một lương tâm trí thức trước thân phận quê hương và tình yêu qua một bút pháp hài hòa giữa truyền thống và cách tân.
Nhân dịp kỷ niệm tám năm ngày mất của nhà thơ, dịch giả Diễm Châu, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một bài thơ ngày cũ của ông.
tặng Ngô Kha
Từ biển cả mênh mang với những cánh đồng cát trắng
tôi trở về thành phố ngủ yên
buổi chiều thức dậy trong khe núi
đá khô chờ giọt mưa rưng rưng
ôi quê hương của một dòng sông
với những triền ngô tỏa mềm ánh sáng
những con đò đan những vết thương
lên mình nước dàn đi
những mảnh đời rách nát
tôi trở về để nhìn tôi thiêu thân
và nhìn em đội vòng gai hận thù rướm máu
những ngọn đuốc năm xưa thắp màu hỏa hoàng lên áo ấy
và chiều buồn ru mình vào tiếng ve
những cánh dơi bay về cổ thành
và em làm giọt mưa lăn xuống má
ấy thương yêu gầy trong vành nón
và khổ đau lay từng gót chân nai.
một buổi mai tôi tung tăng ngoài lộ
như bóng mây hồng còn đợi nắng phất phơ
tôi ngửa mặt đón làn sương mai
từ mẩu tre ngà khum vòng tay gió biếc
em lặng lờ như tiếng hát
trong vườn cây vả đã đơm bông
tôi níu chùm hoa dâng một ngày đã mất
và hương hoa làm ngây ngất hồn tôi
tôi đưa tinh tú về bên dẫy núi
đón tay em từng ngón vuốt ve
và thảm cỏ thở mùi tóc trầm
và viền môi quyện áng mây đưa
tôi ngửa mặt nhìn tôi trong ánh mắt
thấy em về trong cánh bướm hư vô.
vào trong ngõ lá thuôn xác xơ màu tưởng niệm
tôi lạc mất tôi trong thành phố và em
khi những bước đi của loài rắn quanh co
còn vần vi bên trái táo
những vết chân của loài rất độc
còn cày sâu trên vừng trán dòng sông
những bụi cỏ lấp dần tiếng hót
của loài chim mang định mệnh trong hồn
tôi ngỡ ngàng đuổi theo em như một đường dây hút gió…
DC – Huế, 1969