Lời người dịch: Nổi tiếng với tiểu thuyết Trăm năm cô đơn, sức mạnh của Gabriel García Márquez nằm trong cách xây dựng khí hậu truyện dựa trên một giọng văn miên man, vừa bí mật, đầy êm đềm, cùng lúc hoang đường. Trong thể truyện ngắn, qua María Dos Prazerès, Marquez đạt đến sự tinh lọc với những chi tiết được chọn lựa kỹ lưỡng. Ưu điểm chính của María Dos Prazerès nằm trong nhân sinh quan của truyện, vẽ lên một kiếp người phải chung chạ với thần chết đầy hiu quạnh. Kể từ thập niên 2000, Márquez bắt đầu phải nghe những tiếng chuông gọi hồn của giới phê bình: Tiểu thuyết hiện thực huyền ảo đang giãy chết. Sang đến đầu thế kỷ 21, đọc lại María Dos Prazerès của nhà văn này, người đọc chỉ có thể đồng ý: Con người đang giãy chết trong đời sống thực tế bây giờ. Khác xa khối đông các nhà văn nội soi, giảo nghiệm tử thi nhân vật một cách máy móc, Márquez, thủ lĩnh của trường phái huyễn ảo Nam Mỹ, kế thừa Horacio Quiroga, Jorge Luis Borgès, Jorge Icaza, tiếp nối với Manuel Scorza, Julio Cortázar, Augusto Roa Bastos, Carlos Fuentès… không khảo sát mà suy diễn phần không thể chứng minh của con người: Phần ảo giác.
Bản dịch Việt ngữ, với nhiều khiếm khuyết, còn đánh mất phần lớn cú pháp đặc trưng của Márquez, thường xuyên xếp các mệnh đề trong thể phủ định cạnh nhau, nhằm xác quyết một nội dung ngược lại mà khả năng người dịch đã không tái tạo được hết.

Gabriel Garcia Marquez ở Cartagena, Colombia – NGUỒN TELEGRAPH.CO.UK
Nhân viên mai táng đến thật đúng giờ khiến María Dos Prazerès, còn khoác áo choàng tắm và đầu gắn các kẹp tóc, chỉ kịp giắt một đoá hồng đỏ lên vành tai để không xuất hiện quá ít quyến rũ như bà đang ấn tượng về chính mình. Bà càng hối tiếc về cách trang phục của mình khi mở cửa trông thấy thay vì một lão chưởng khế u ám, như bà vẫn hình dung về bọn lái buôn của thần chết, lại hiện ra một thanh niên trẻ có vẻ nhút nhát, mặc đồ lớn kẻ ô và thắt cà vạt in hình chim cò sặc sỡ. Cậu trai không choàng áo nỉ dù thành phố Barcelona chỉ vừa chớm xuân mà những trận gió phẩy mưa gây ẩm lạnh còn khó chịu hơn cả mùa đông. María Dos Prazerès đã tiếp nhiều đàn ông ở mọi giờ giấc, cảm thấy hổ thẹn dù hiếm khi bà biết đến xấu hổ. Dù đã bảy mươi sáu xuân xanh và đang sống với niềm tin chắc nịch là thần chết sẽ đến đón bắt mình đi trước Giáng sinh, bà đã tính khép cửa, dợm khẩn cầu nhân viên huyệt đất vui lòng chờ đợi chốc lát, cho bà đủ thời gian thay đổi xiêm y để đón khách đúng cung cách. Nhưng rồi bà lại nghĩ cậu trai có thể nhuốm lạnh trên bậc thềm tăm tối, và bà quyết định mở cửa.
– Tha lỗi cho tôi trong y phục của loài dơi, vì sống ở thành phố Catalogne này năm mươi năm nay, lần đầu tiên tôi chứng kiến một kẻ đến đúng giờ.
Bà phát âm thổ ngữ Catalan tuyệt hảo, với giọng trong pha ngữ điệu xưa, dù phảng phất chút ngữ âm của tiếng Bồ Ðào Nha mẹ đẻ. Tuy đã cao tuổi, và đang đeo nhiều kẹp sắt dùng cuốn tóc, bà vẫn giữ được thân thể dong dỏng đầy sống động của những phụ nữ lai đen có bộ tóc cứng và ánh mắt vàng dữ dội, cho dù đã từ rất lâu bà đánh mất hết lòng trắc ẩn dành cho đàn ông. Nhân viên tiếp thị tống táng, hãy còn chói mắt vì ánh sáng bên ngoài, không bình phẩm điều gì mà chỉ cẩn thận chùi chân lên tấm thảm lót ở lối vào trước khi hôn lên tay bà bằng một động tác cung kính.
– Cậu em! Cậu thật sự là một đàn ông mà thiên hạ không còn đẻ ra được nữa! María Dos Prazerès phá ra cười. Tiếng cười của bà reo vui tựa các khánh chuông. Ngồi đi cậu em!
Tuy hãy còn ít kinh nghiệm trong nghề, cậu trai cũng đủ vốn liếng giao tế để biết khách hàng không tiếp đãi nhân viên nhà đòn vào giấc tám giờ sáng, lại càng ít nồng nhiệt nếu đó là một đầm già hết độ lượng, mà thoạt nhìn, mang dáng dấp của một ả điên vừa trốn khỏi Nam Mỹ. Cậu đứng chôn chân ở ngạch cửa không biết phải mở đầu cách nào, trong lúc María Dos Prazerès đi kéo các tấm rèm may bằng nhung xanh dầy. Ánh sáng dịu của Tháng Tư vừa đủ soi căn buồng khách được bày biện khá tỉ mỉ gần giống với tủ kính của một hiệu đồ cổ. Các vật dụng hằng ngày, không quá nhiều hay quá ít, mà mỗi vật dường như được đặt vào đúng vị trí tự nhiên với khiếu thẩm mỹ chắc nịch mà sẽ khó lòng tìm thấy ở một ngôi nhà nào khác cũng được chăm sóc kỹ lưỡng đến vậy, ngay cả ở một thành phố cổ xưa và kín đáo như Barcelona.
– Xin lượng thứ, tôi đã nhầm số nhà. Cậu trai lúng túng.
– Ôi dào. Tôi cũng muốn thế, nhưng thần chết không lầm lẫn đâu. Bà phản đối.
Mai táng viên mở ra trên bàn một tập giấy sặc sỡ tựa tấm bản đồ hàng hải, chia làm nhiều ô màu sắc, mỗi ô vẽ đầy các chữ thập có đánh số. María Dos Prazerès hiểu đó là sơ đồ chi tiết của nghĩa trang rộng lớn Montjuich, và bà vụt hồi tưởng lại với một hãi hùng đến từ hố thẳm của thời gian. Thời kỳ ở Manaus [1], dưới những trận mưa rào Tháng Mười lũ kiến lửa đã bò lên các mộ chí vô danh và vào trong lăng tẩm những kẻ phiêu lưu mà vòm kính còn quàng vải tang kết bằng sa-tanh. Một buổi sáng, thuở ấu thơ, bà đã chứng kiến vùng Amazone ngập lụt hóa thành một đầm lầy hôi thối, trôi nổi trong sân nhà bà đầy những quan tài rạn nứt lủng lẳng các mẩu vải và vài lọn tóc của những kẻ xấu số. Hồi ức ấy đã khiến bà quyết định chọn lựa, hầu an giấc trong êm đềm, ngọn đồi Montjuich thay vì ở nghĩa địa nhỏ San Gervasio, tuy sát ngay cạnh và quá quen thuộc.
– Tôi muốn một ngôi đất không bao giờ lụt nước. Bà yêu cầu.
– Vậy thì, chỗ này, cậu trai trỏ một vị trí trên sơ đồ bằng cây thước xếp lấy từ túi áo, hình thể giống một cây viết sắt. Không mặt biển nào trên thế gian có thể dâng cao lên đến đây.
Bà tìm phương hướng trên bản đồ giống một bàn cờ hoa hòe nhìn ra cổng chính với lối vào kề bên ba ngôi mả sát vách, giống y nhau, không tên tuổi, nơi chôn Buenaventura Durruti [2] và hai lãnh tụ phiến quân bị giết trong nội chiến. Hằng đêm, bàn tay của kẻ nào đó viết lại tính danh của người đã chết trên bia mả bằng chì than, cọ sơn, bút kẻ lông mày, bằng cả thuốc móng tay, theo đúng thứ tự và không thiếu một mẫu tự, rồi rạng sáng hôm sau gác dan nghĩa địa lại xóa đi để không ai biết đến tên người nằm dưới đất. María Dos Prazerès đã dự tang lễ hạ huyệt Durruti, đám ma gây xôn xao và buồn bã nhất thành Barcelona, nên bà muốn nằm cạnh vị anh hùng. Nhưng không còn ngôi đất trống nào vô chủ trong nghĩa địa rộng lớn chật cứng cư dân, khan hiếm đến mức bà đành cam chịu những gì khả thể. Với điều kiện, bà nói, nhà quàn không cất tôi vào trong những ngăn kéo bắt đợi suốt năm năm như trong một hộp thư. Nghĩ đến điều cốt tủy, bà thêm:
– Và quan trọng nhất, tôi muốn được chôn nằm.
Quả tình, với chiến dịch ồn ào quảng cáo mua trước trả sau, dư luận đang dấy lên lời đồn các nhà đòn cho đào huyệt đứng để tiết kiệm đất. Với tính chính xác của một diễn văn đã học thuộc lòng, nhân viên tiếp thị an táng giải thích rằng các Công ty Tang lễ truyền thống cố tình lưu truyền lời đồn đãi thiếu ngay thực này nhằm mục đích duy nhất gièm pha việc khuyến mại sở hữu mộ chí bằng cách trả góp. Cậu trai còn đang biện luận thì ngoài cửa khẽ khua nhẹ ba tiếng động kín đáo. Cậu ngưng lại, ngần ngừ, nhưng María Dos Prazerès đã ra dấu cho cậu hãy tiếp tục.
– Ðừng bận tâm. Noi về đó mà. Bà khuyến khích cậu bằng giọng trầm.
Mai táng viên kết thúc phần thuyết trình và María Dos Prazerès tỏ vẻ hài lòng với các lập luận. Tuy nhiên, trước khi ra mở cửa, bà vẫn muốn tóm lược suy nghĩ đã chín muồi trong lòng mình bằng một tổng hợp sau cùng về các ước muốn thầm kín, hình thành trong nhiều năm kể từ sau trận vỡ đê cổ xưa ở Manaus.
– Ðiều tôi muốn xác quyết, là tôi tìm một ngôi đất để nằm, không sợ lũ lụt và nếu có thể dưới bóng râm của tàn cây vào mùa hè mà không ngại ai đào xới về sau đem tôi vất vào thùng rác.
Bà ra mở cửa cho chú chó xù ướt đầm vì mưa có dáng đi tiu nghỉu khác hẳn cách bài trí của ngôi nhà. Chú chó trở về từ chuyến vi hành sớm mai trong các dẫy nhà lân cận vừa giẫm chân vào đã biểu hiện dấu hiệu hoan hỉ. Chú nhảy chồm lên bàn sủa rân không lý do, và xém một chút là cả bốn cẳng lấm đầy bùn đã vấy bẩn tấm sơ đồ. Ánh mắt của María Dos Prazerès làm nguội tắt nhiệt huyết của chú.
– Noi, trở xuống! Baixa d’ací. Bà quát.
Con vật co rúm, nhìn bà van lơn, và hai giọt nước mắt chảy rõ rệt xuống mũi. María Dos Prazerès quay lại với nhân viên tiếp thị đang bối rối.
– Lạy Chúa! Con chó khóc. Cậu trai bật kêu lên.
– Vì Noi hài lòng trông thấy có người đến đây vào giấc này. Thường khi vào nhà nó lịch lãm hơn tất cả mọi đàn ông, trừ cậu ra. Bà nói bằng giọng trầm.
– Mẹ kiếp! Con chó biết khóc. Cậu trai lặp lại, rồi chợt nhận ra đang khiếm nhã, cậu đỏ mặt xin lỗi. Xin bà lượng thứ, thật khó tin chưa từng thấy, ngay cả trong phim ảnh.
– Giống chó biết hành xử như người, nếu loài người dạy cho chúng. Nhưng chủ chó cứ tận lực giáo huấn những khuôn khổ làm chúng khổ sở, chẳng hạn ăn trong đĩa hay phải bài tiết vào một giờ nhất định vào đúng nơi đúng chỗ. Không ai dạy phép sống tự nhiên mà loài vật ưa thích, như khóc cười. Mà này, hợp đồng của chúng ta đến đâu?
Ðôi bên đã gần như hoàn tất. María Dos Prazerès đành an phận với mùa hè không bóng cây vì nghĩa trang đã dành các bóng râm cho giới quyền chức. Bù lại, các điều kiện vay nợ trở nên vô nghĩa vì bà muốn được hưởng khấu trừ cho trường hợp trả hết phí tổn bằng tiền mặt.
Chỉ sau khi đã ký kết, trong lúc cất khế ước vào cặp da cậu trai mới nhìn ngôi nhà bằng ánh mắt chăm chú. Hơi thở huyền bí toát ra từ nhan sắc của căn phòng bỗng khiến cậu bị dao động. Cậu quay lại ngắm María Dos Prazerès như thể cậu vừa trông thấy bà lần đầu.
– Cho phép tôi đặt một câu hỏi riêng tư. Cậu nhã nhặn.
Bà đưa cậu ra đến cửa.
– Dĩ nhiên, miễn cậu đừng hỏi tuổi tác của tôi.
– Tôi có thói tật đoán nghề nghiệp của khách hàng qua các vật dụng bài trí trong nhà, thành thật mà nói, vào trong nhà này, tôi không sao đoán ra. Bà làm nghề gì?
María Dos Prazerès trả lời bằng một trận cười phá.
– Tôi làm đĩ, cậu em! Bộ tôi hết còn nét đĩ thõa nữa rồi hay sao?
Cậu trai đỏ mặt.
– Tha lỗi cho tôi.
– Chính tôi mới phải xin tha thứ. Bà giữ lấy cánh tay của khuyến mại viên tống táng, để tránh cho cậu không va vào cửa gẫy xương. Hãy cẩn thận! Cậu không được té vỡ mặt trước khi chôn cất tôi tử tế.
Cửa vừa đóng, bà ôm lấy chú chó vào lòng, vuốt ve dỗ dành, rồi cất giọng hát mang âm hưởng Châu Phi tuyệt hay của mình hòa vào dàn đồng ca thiếu nhi đang vang lên từ một vườn trẻ kế cận.
Ba tháng trước, María Dos Prazerès nằm mơ thấy những tiết lậu khải thị của thần chết, kể từ đó bà cảm thấy gần gũi mật thiết với kẻ cầm lưỡi hái mà bà biết hắn cô đơn vô cùng. Bà đã dự trù phân chia kỹ lưỡng của cải sau khi mất, cả nơi quàn thi thể để bà có thể ra đi ngay lúc này mà không quấy rầy một ai. Bà quyết định nghỉ hưu sau khi góp nhặt từng hào một thành một tài sản mà không phải chắt bóp quá cực khổ, rồi chọn ngôi làng cổ kính quý phái Gracia làm nơi ẩn cư chót cùng trước khi đô thị tỏa lan cướp hết mặt đất. María Dos Prazerès mua một tầng lửng xiêu vẹo bốc mùi cá mòi xông khói với các vách gỗ bị thuốc súng gặm nhấm hãy còn lưu trữ vết tích của một cuộc chiến vô danh không hào quang. Khu chung cư không quản gia trông coi, cũng thiếu nhiều bậc ở cầu thang ẩm thấp tăm tối, dù các tầng đều có người ở. Bà cho xây lại cầu xí và nhà bếp, dán giấy tường điểm hoa rực rỡ, trang sức lại các khung kính và mắc màn nhung. Sau cùng bà bài trí nội thất bằng các tủ bàn quý giá, xen kẽ các vật dụng thường ngày, những tiểu phẩm mỹ nghệ trên bệ sưởi, các rương hòm chứa đầy lụa và gấm thêu bị đánh cắp từ các ngôi biệt thự bỏ hoang của các gia đình Cộng-Hòa thảm bại mà bà đã tìm mua từng món một, suốt nhiều năm, với giá rẻ ở các cuộc bán đấu giá chui.
Sợi dây duy nhất còn nối kết María Dos Prazerès với quá khứ xưa cũ là tình bạn với công tước Cardona, đã không bao giờ quên đến thăm bà mỗi Thứ Sáu cuối tháng, cùng dùng chung bữa tối với những cợt nhả ướt át. Nhưng ngay cả tình bạn thời trẻ này cũng phải ẩn núp kín đáo, vì công tước phải đậu xe gắn huy hiệu hoàng gia ở một khoảng cách khá xa, trước khi lén lút lên tầng lửng như một bóng ma chạy trốn danh dự của cả hai. María Dos Prazerès không biết đến ai khác trong chung cư, ngoài đôi nam nữ có một bé gái lên chín vừa dọn đến ở cùng hành lang. Ðiều khó tin là bà chưa từng chạm mặt người sống trong cầu thang.
Công việc thảo di chúc cho thấy María Dos Prazerès hội nhập vào xã hội nhiều hơn bà tưởng, ít ra với cộng đồng Catalan đầy nghiêm khắc mà danh dự quốc gia đã cắm rễ chung với phẩm hạnh. Bà phân phát đến tận các vật dụng nhỏ nhặt vô nghĩa nhất cho các láng giềng gần nhất. Cuối cùng, tuy không chắc lắm đã hoàn toàn công bình, bà tin đã không bỏ sót bất kỳ ai xứng đáng thừa hưởng. Văn bản kế thừa được soạn một cách nghiêm ngặt xác đáng đến mức vị chưởng khế ở đường del Abrol, từng khoe đã trông thấy tất cả mọi loại chứng thư, đã không tin vào mắt mình khi chứng kiến bà đọc cho thư ký lục sự ghi vào biên bản, danh sách tỉ mỉ từng món của cải mà mỗi thứ được bà gọi tên chuẩn xác trong ngữ âm cổ xưa của vùng Catalan, kèm tên tuổi với địa chỉ nghề nghiệp của kẻ thừa kế được sắp hạng tùy theo vị trí tình cảm chiếm ngự trong lòng bà.
Sau khi tiếp cậu trai huyệt đất, María Dos Prazerès hòa mình vào dòng người đông đảo viếng thăm nghĩa trang mỗi sáng Chúa Nhật. Bắt chước các láng giềng mộ phần, bà trồng những khóm hoa nở suốt bốn mùa, tưới nước lên thảm cỏ mới và cắt tỉa bằng kéo làm vườn cho đến khi bãi cỏ trở nên dầy rậm y như thảm lót ở lối vào đại sảnh quận lỵ. Ngôi đất trở nên thân thuộc đến nỗi về sau bà khó lòng hình dung vì sao ban đầu mình lại thấy quá hoang phế.
Chúa Nhật đầu tiên đến viếng kim tĩnh, trái tim María Dos Prazerès đã nhảy dựng, khi bà trông thấy ba mộ chí vô danh cách không xa cổng vào. Bà đã không dám dừng gót nhìn ngắm chúng, vì cách vài thước là gã gác dan không bao giờ ngủ của nghĩa địa. Ðến Chúa Nhật thứ ba, lợi dụng một khoảnh khắc không ai chú ý, bà thực hiện một trong những giấc mơ lớn nhất của đời mình. Dùng thỏi son môi đỏ thẫm bà viết lên gạch bia đã mòn nhẵn vì mưa: Durruti. Từ đó, mỗi lần khả dĩ, có khi trên một vách bia, có khi cùng lúc trên cả hai hoặc ba bia mả, bà lặp lại động tác dứt khoát của thỏi son, với trái tim quặn thắt vì hoài niệm.
Vào Chúa Nhật cuối Tháng Chín, bà dự lễ chôn cất đầu tiên trên đồi. Ba tuần sau, giữa buổi chiều buốt gió, một cô dâu trẻ bị thả xuống lòng huyệt sát cạnh sinh phần của bà. Ðến cuối năm, bảy lô đất đã sõng soài người nằm mà mùa đông phù du trôi qua vẫn chưa muốn tiếp rước bà. Nhưng María Dos Prazerès không hề phiền muộn, rồi với tiết trời ấm dần, cùng với sức nóng tăng dần qua cửa sổ mở tràn vào tiếng động thác lũ của đời sống, bà lấy lại can đảm đã giúp bà sống sót qua bí ẩn của giấc mơ. Công tước Cardona, đi nghỉ mát ở miền núi để tránh những tháng hầm bức, khi trở về, nhận xét bà còn quyến rũ hơn cả thời kỳ tròn chẵn năm mươi xuân thì mà bà đã nổi tiếng tươi trẻ.
Sau nhiều cố gắng, María Dos Prazerès đã làm cho Noi hiểu được chốn cư ngụ cuối cùng của chủ nhân sẽ tọa lạc trên đỉnh đồi rộng lớn nơi có nhiều mộ lập giống nhau. Rồi bà dạy cho chú khóc sướt mướt trước bia đá hãy còn trống ảnh để chú sẽ tiếp tục khóc lóc theo thói quen sau khi bà mất. Bà dắt chú tản bộ nhiều lần từ nhà ra đến nghĩa địa, hướng dẫn cho chú những điểm chuẩn giúp xác định phương hướng để chú khắc ghi vào trí não tuyến đường xe buýt chạy dọc phố Ramblas, cho đến ngày bà cảm thấy chú đã thuần thục, có thể tự tảo mộ lấy một mình.
Ngày Chúa Nhật thực tập, vào giấc ba giờ chiều, bà cởi áo gi-lê mùa xuân cho Noi, một phần vì mùa hè đã kề cận, phần khác để Noi ít gây hiếu kỳ, để bà có thể thả chú tự do một mình. Bà nhìn theo Noi chạy lon xon xa dần về phía bóng râm của hè phố, thân sau của chú dường như thẹn thùng mà buồn bã dưới chiếc đuôi nhảy nhót. Bà khổ sở kềm chế ý nguyện được khóc cho chú, cho bà, cho thật nhiều những năm cay đắng đầy ảo vọng, của cả hai, trước lúc chú rẽ vào góc đường Mayor hướng xuống biển. Mười lăm phút sau, bà lấy chuyến xe buýt chạy tuyến Ramblas ở quảng trường Lesseps gần đó, hy vọng sẽ trông thấy chú qua cửa kính mà chú không thấy bà. Rồi bà thoáng bắt gặp Noi giữa các bà mẹ ẵm trẻ ngày Chúa Nhật, chú mang dáng vẻ nghiêm trọng, chú tâm, đang đứng đợi đèn đỏ chuyển sang xanh ở ngã tư Paseo de Gracia.
– Chúa ơi, bà thở hắt, trông Noi cô đơn quá!
María Dos Prazerès đợi chú Noi gần hai tiếng dưới mặt trời thô lỗ của nghĩa trang Montjuich. Thỉnh thoảng bà chào vài khách viếng thăm mà bà không thật nhớ mặt vì đã gặp trong một Chúa Nhật khá xa, giờ không còn ai vận áo tang hay thương khóc khi phủ hoa lên mình thân nhân đang nằm dưới huyệt. Lát sau, khi tất cả đã ra về, bà nghe vọng lên một tiếng kêu sầu não, thảm thiết, làm dấy động bầy hải âu bay tản, đến khi nhìn thấy một du thuyền sơn trắng rũ cờ Ba-Tây giữa mặt đại dương mênh mông bà vội khẩn cầu với tất cả lòng thành cho chiếc tàu này hãy đem đến một cánh thư của một ai đó đã hy sinh vì bà trong nhà giam Pernambuco [3]. Quá năm giờ chiều, sớm hơn thời gian trù tính mười hai phút, chú Noi hiện ra trên đồi, chảy nước dãi vì mệt và vì nóng, nhưng điệu bộ chú kiêu hãnh như dáng vẻ của một bé trai vừa thắng cá cược. Ðến khi ấy, bà mới thoát ra khỏi nỗi sợ hãi sâu chín sẽ mãi mãi không bao giờ có một ai tìm đến than khóc trước mộ phần của mình.
Trần Vũ dịch *
Ghi chú của người dịch:
[1] Manaus, thủ phủ của miền Amazone, thuộc Ba Tây.
[2] Léon Buenaventura Durruti y Domingo sinh ngày 14-7-1896 là một trong những gương mặt chính theo chủ nghĩa vô chính phủ, thành lập Liên Minh Ðoàn Kết Los Solidarios, đã tổ chức ám sát bất thành vua Alphonse XIII và Đức Hồng Y Juan Soldevilla y Romero, Durruti tử thương ngày 20-11-1936 tại Madrid trong nội chiến Tây Ban Nha.
[3] Nhà tù nổi tiếng trên đảo Fernando de Noronha, một “Côn đảo” của Ba Tây.