Một anh bạn là cựu học sinh trường Chu Văn An ở Sài Gòn trước năm 1975, đề nghị tôi viết về nhà giáo Chu Văn An – một yêu cầu nhẹ nhàng nhưng không dễ, bởi vì Chu Văn An là danh xưng của vị thầy đã lưu danh thiên cổ. Tôi không phải là nhà sử học, vì lòng yêu mến bạn và vì lòng kính trọng tiền nhân, lời quê góp nhặt dông dài ghi lại một vài nét trong cuộc đời của Thầy Giáo Chu Văn An.
Thầy Giáo Chu Văn An tên hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội. Theo thần tích đình làng Thanh Liệt – nơi thờ Chu Văn An làm Thành hoàng – ông sinh năm Nhâm Thìn (1292), qua đời năm Canh Tuất (1370). Ngay từ thời thanh niên Chu Văn An đã nổi tiếng là người cương trực, thanh liêm, tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Khi đỗ Thái Học Sinh, ông không ra làm quan, trở về quê mở trường dạy học. Môn sinh khắp nơi tìm đến xin làm học trò rất đông. Trong số các môn đệ của ông, có rất nhiều người thành đạt, thi đỗ làm đại quan trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, khi về thăm thầy vẫn giữ đúng lễ học sinh, rất kính trọng tôn sư. Nếu những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính tình nghiêm nghị, tư cách thanh cao, học vấn uyên thâm, cộng thêm đức độ và uy tín là những điều giúp cho danh tiếng của Thầy Giáo Chu Văn An càng ngày càng lan truyền rất xa.
Có một huyền thoại về ngôi trường và nhân cách của Thầy Giáo Chu Văn An, còn lưu lại đến ngày nay: Tương truyền khi Chu Văn An mở trường dạy học tại quê nhà, trong số học trò có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng được ông khen là chăm chỉ, nhưng không biết tông tích ở đâu. Chu Văn An cho học trò khác theo dõi, thấy người này cứ đến khu Đầm Đại – một khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng Đại Từ, Tứ Kỳ, Huỳnh Cung – thì biến mất. Chu Văn An biết người này là thủy thần. Gặp năm đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập học trò lại hỏi, ai có tài “hô phong hoán vũ – gọi gió làm mưa” hãy thực hiện để giúp dân làng, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước còn ngần ngại, sau đứng ra xin nhận, đã nói với Chu Văn An rằng: “Con vâng lời Thầy là trái lệnh Thiên Đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai này có chuyện gì không hay, xin thầy chu toàn cho.”
Người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn, cầm bút thấm mực vẩy khắp nơi. Vẩy gần hết mực lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét, sáng hôm sau có xác thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An được tin khóc than thương tiếc, sai học trò làm lễ an táng, dân làng cũng đến giúp, lập đền thờ để nhớ công ơn. Hiện nay trong vùng này vẫn còn dấu vết mộ thủy thần.
Cũng theo truyền thuyết, nơi nghiên mực rơi xuống biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên có tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học, quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm…v.v…Trong đền thờ vẫn còn hai câu đối ghi lại sự tích này:
“Mặc nghiễn khởi tường vân,
nhất bút lực hồi thiên tự thuận.
Chu đình * lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô.”
“Mây lành từ nghiên mực bay lên,
một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải.
Mưa tốt giữa sân son đổ xuống,
nghìn cánh đồng ngập nước, đất nẻ trổ mùa hoa.”
Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An, để nói rằng tài đức của ông có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần, đồng thời cũng khẳng định danh thơm tiếng tốt của ông lúc đương thời rất lớn.
Trong thời vua Trần Nhân Tông, Chu Văn An được mời là Tư Nghiệp ở Quốc Tử Giám dạy Thái Tử học. Ông cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia củng cố triều đình, lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái. Đến thời Trần Dụ Tông, chính sự càng thối nát, gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhiều lần can ngăn Trần Dụ Tông không được, đã dâng Thất Trảm Sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được nhà vua yêu mến. Dụ Tông không nghe, ông treo mũ quan “ở cửa huyền vũ” về ở ẩn tại núi Phương Sơn, thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí Linh, Hải Dương, lấy hiệu là Tiều Ẩn [người ở ẩn đi hái củi]. Và qua đời tại đây.
Theo thư tịch cũ, Chu Văn An viết nhiều sách. Ông để lại cho đời sau hai tập thơ là Quốc Ngữ Thi Tập bằng Chữ Nôm, và Tiều Ẩn Thi Tập bằng Hán Văn. Ông còn viết một quyển biện luận giản ước về Tứ Thư, nhan đề Tứ Thư Thuyết Ước. Theo một tài liệu khác, Chu Văn An còn là nhà đông y đã biên soạn quyển Y Học Yếu Giải Tập Chu Di Biên, gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông Y. Khi ông mất, vua nhà Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất của một nhà trí thức, đó là được tôn thờ trong Văn Miếu.

Bàn thờ thầy giáo Chu Văn An tại Văn Miếu Hà Nội – NGUỒN EN.WIKIPEDIA.ORG
*. Chu đình có hai nghĩa là: Sân son và sân nhà họ Chu, ý chỉ Chu Văn An.