Xuất hiện lần đầu trên tập san Văn Học Nghệ Thuật năm 1979 với truyện ngắn Bụi Hồng qua giới thiệu của Võ Phiến, Lê Thị Huệ lập tức được công nhận như một người viết cá tánh, tài hoa. Sau 10 chuyến về Việt Nam và một năm nghiên cứu tại đại học quốc gia Hà Nội, Lê Thị Huệ trở về Hoa Kỳ cho xuất bản “Văn hoá trì trệ nhìn từ Hà Nội đầu thế kỷ 21”. Tập ký sự đặt thẳng vấn đề – chính văn hoá Việt Nam đã ngăn cản sức lớn mạnh của dân tộc – nhanh chóng trở thành một đề tài thảo luận.
Sinh quán Hà Tĩnh và lớn lên trong Nam, Lê Thị Huệ theo học Việt văn và Sư phạm tại Đà Lạt trước khi sang Mỹ năm 75 rồi tốt nghiệp cao học các ngành Tâm lý, Hướng dẫn giáo dục, hiện làm giáo sư hướng dẫn tại đại học Evergreen Valley College, California.
Tác phẩm đã xuất bản
Bụi Hồng 1984, Kỷ niệm với Mỵ Ánh 1987, Rồng Rắn 1989, Khởi đi từ ngây thơ để đến gần sự thật 1995, Canh thức cùng thơ mộng 1996 (chung với Vũ Quỳnh Hương và Trân Sa), Văn hoá trì trệ nhìn từ Hà Nội đầu thế kỷ 21, tái bản 2003.

Trần Vũ: Toàn tập ký “Văn hoá trì trệ nhìn từ Hà Nội đầu thế kỷ 21” vẽ lên hình ảnh một nền văn hoá rồng rắn cần từ bỏ, có phải Lê Thị Huệ muốn đi ngược lại với những kêu gọi “bảo tồn di sản văn hoá, đậm đà bản sắc dân tộc” của chính phủ Việt Nam?
Lê Thị Huệ: Tôi cũng không biết mình đi đâu nữa.
Có độc giả đọc xong sách Văn hoá trì trệ bèn hỏi tôi bao giờ viết quyển nữa, nói cho họ biết phải làm sao, chứ chỉ nói ra rồi không bày cho người ta làm thế nào, là thế nào. Tôi luôn luôn viết với tinh thần là chỉ muốn động não và chia sẻ với độc giả ở vế đầu. Sau đấy độc giả hãy tự đi tìm cho mình câu trả lời. Tôi không muốn tác giả là người đưa bản trả lời cho độc giả. Tôi muốn độc giả của tôi tham gia vào sinh hoạt đọc sách một cách chủ động hơn. Tôi không biết mấy ông chính phủ có hiểu lời nói: “bảo tồn di sản văn hóa, đậm đà bản sắc dân tộc” là gì không? Chứ xứ sở nào mà không có những cái hay và cái duyên riêng. Việc bảo vệ giữ gìn bản sắc văn hóa lại càng cần hơn trong một thế giới ngày nay đang bị các xứ lớn dùng sức mạnh toàn cầu hóa để ảnh hưởng văn hóa của họ. Tệ hơn nữa là các nền văn hóa lớn này đang nuốt chửng các nền văn hóa bé. Riết rồi cả mặt đất chỉ còn lại một loại hoa “Bông Giấy Tây” .
Bảo vệ cái riêng khác với dính mắc những hệ lụy trì trệ số mệnh mình. Khi nào những nhà lãnh đạo, hay người dân Việt Nam nhìn ra được sự khác biệt này, lúc đấy Việt Nam có thể tạo ra những thay đổi lớn về số mệnh mình.
Tôi đang chơi trò móc ngoéo dân Việt Nam ra chơi chung với tôi. Tôi đã viết quyển sách sau những buổi lang thang và ngồi quanh bờ Hồ Hoàn Kiếm Hà Nội. Chứng kiến những người đàn bà thoăn
thoắt quảy gánh hàng rong hoặc vác mía đi bán kiếm tiền nuôi gia đình, thì bị mấy ông công an rượt đuổi văng cả gánh mất cả dép. Những bữa khác tôi lại chứng kiến cảnh công an bảo vệ các đoàn làm phim ngoại quốc. Công an đứng im lặng hầu ngoại quốc và hầu các cán lớn… Cán ngồi vắt vẻo dưới gốc cây Bờ Hồ. Cán gọi các đồng chí nhi đồng đánh giày lại. Cán vừa nhìn các em đánh giày vừa hút thuốc vừa vứt tàn la liệt xuống đất. Thật là những bức tranh tương phản khắc
nghiệt làm cho tôi đánh mất hơi thở. Trong những phút giây cuồng trí ấy, tôi không còn hy vọng về những người đàn ông lãnh đạo và thành phần gọi là giới trí thức Việt Nam. Họ nắm giữ số mệnh Việt Nam đã quá lâu, mà toàn làm thứ gì đâu đâu. Nên tôi viết quyển sách với một mơ ước hết sức lãng mạn: Tôi muốn sách của tôi có thể đến với những người đàn bà lớp ba lớp năm bán hàng rong này. Họ đọc được, họ nhìn ra vấn đề, họ sẽ thay đổi số mệnh của họ.
Tôi muốn viết quyển sách này để tặng những người đàn bà ấy.

Lê Thị Huệ
Trần Vũ: Người đọc cũng khám phá niềm tin của Lê Thị Huệ vào nền dân chủ Hoa Kỳ với tất cả khả năng giáo dục và hướng dẫn của xã hội Mỹ được đem ra so sánh trong tập Ký, đặc biệt được trình bày như một mô hình cần thiết. Theo bà, con đường Hoa Kỳ là lối thoát cho Việt Nam? Và như vậy thì không vọng ngoại trong khi bà đã khiển trách thứ văn hoá vọng ngoại của chính quyền Việt Nam bây giờ?
Lê Thị Huệ: Thử tưởng tượng một người Việt sinh sống ở Nhật, và viết một tác phẩm như tôi đã viết, anh ta sẽ nói về nước Việt và nước Nhật, vì đấy là những kinh nghiệm và học hỏi mà anh ta hiểu biết nhất. Tôi đã so sánh những hoàn cảnh và kinh nghiệm của tôi ở Mỹ và Việt Nam một cách rất chọn lọc. Chúng đến một cách tự nhiên từ đời sống và từ kinh nghiệm của tôi. Tôi đã chọn lựa chúng trong cái tư thế không có được những chọn lựa nào khác.
Là một người yêu chuộng công việc sáng tác, tôi cần tự do như cần không khí. Tôi yêu sự tự do cá nhân mà Hoa Kỳ trao tặng tôi. Nhưng nếu Việt Nam có một bầu khí tự do cá nhân, để yên cho tôi viết và sống theo sự chọn lựa của tôi, tôi sẵn sàng dứt bỏ Hoa Kỳ để về Việt Nam sống. Không quốc gia nào nên bắt chước quốc gia nào. Việt Nam không nên bắt chước mô thức nào cả. Hãy tự phát triển những ưu điểm và khắc phục những khuyết điểm của chính mình. Hãy tự phát huy nội
lực cộng đồng. Hãy tự sử dụng nhân tài quốc gia. Hãy tự sáng tạo. Hãy tự tìm tòi cho chính mình một con đường thích hợp với con người, văn hóa, thổ ngơi của triệu triệu người dân ở đó.
Trần Vũ: Nhiều bài viết đã đánh giá văn học di dân VN thập niên 80 là một dòng Văn học Tố Cộng. Được xem là nhà văn nữ nổi bật trong giai đoạn này, Lê Thị Huệ đồng ý với tên gọi trên?
Lê Thị Huệ: Tôi viết vì tôi yêu công việc sáng tác. Tôi không viết vì danh. Danh đi đằng sau viết. Mà danh thì do thiên hạ đặt cho. Ai muốn tặng cho cái tên nào thì đấy là quyền của họ. Mình có kiểm soát được điều này đâu. Nếu có người nói mình chống Cộng thì chắc là mình cũng có chống Cộng thật. Hoặc giả nó là cái gì đó ra ngoài, hơn cả sự chống Cộng nữa, nhưng người đọc không nhìn ra được, thì như thế tôi phải làm sao? Tôi có cảm tưởng ở vài tác phẩm khác, những điều tôi nói chưa có nhà phê bình nào nắm bắt được. Đôi khi tôi muốn phân trần rằng không ai hiểu điều tôi nói. Nhưng cũng có lúc tôi thấy tôi nên tiếp nhận nó như nó là thế đấy.
Chuyện chống Cộng cho riêng cá nhân tôi thì cũng không có gì lạ. Những người như tôi vì Cộng Sản mà chạy mất đất ra khỏi quê hương. Biến cố vĩ đại này để lại dấu ấn trong tác phẩm của chúng tôi là chuyện bình thường thôi. Đáng lẽ các nhà phê bình nên tiếp nhận điều này và khách quan mổ xẻ tác phẩm của những người sinh ra, lớn lên, và sáng tác trong giai đoạn này. Đằng này các nhà phê bình của chúng ta đã bị con vi rút bậy bạ của dân làm chính trị cấy cho vào óc.
Thế là không dám đối điện với những cục xương này. Phê bình trở thành lệch lạc. Thấy tác phẩm nào đầy mùi chính trị là hất ra ngay. Chính trị đáng lẽ là một món hấp dẫn như dâm. Trong khi các ông bà sáng tác lẫn các nhà phê bình của chúng ta tơm tớp bàn về dâm một cách sa đà thì lại không dám đối mặt với những đề tài chính trị xã hội quan trọng này. Trời ơi chính trị có biết bao nhiêu là thách đố để những cây bút nào muốn phiêu lưu hướng ấy tha hồ mà viết.
Trần Vũ: Thập niên 90 phát sinh chuyển động giao lưu mà tập san Hợp Lưu là một tập san văn chương đầu tiên khởi xướng con đường này. Lê Thị Huệ cũng từng có thơ đăng trên Hợp Lưu, vậy hôm nay bà nhìn vấn đề hợp lưu ra sao, khi hầu hết các tập san bên ngoài đều thường xuyên đăng bài của những tác giả trong nước không truy lục lý lịch và khi hầu hết Việt kiều thường xuyên trở về thăm nhà, thậm chí làm ăn với chính quyền trong lúc sách báo quốc nội xuất cảng ồ ạt sang Mỹ bày bán trong các hiệu sách ở Cali?
Lê Thị Huệ: Còn phải hỏi! Tôi tự hỏi tại sao Hợp Lưu chỉ làm được một nửa dễ nhất, là đưa bài trong nước ra, mà không dám tranh đấu để đưa bài ngoài nước về. Đấy là một thất bại của Hợp Lưu.
Việc sách vở trong nước được phổ biến ở hải ngoại thì dân hải ngoại lời to. Người hải ngoại vừa được đọc sách ngoại quốc, vừa được dâng tận miệng những sách trong nước xuất bản. Sướng thế thì thôi. Chỉ tiếc là sách trong nước bị chính trị bó rọ, nên sách trong nước có những hạn chế của chúng. Còn người trong nước không đọc được sách hải ngoại, thì người trong nước lỗ và đi chậm thôi. Lấy ví dụ người Miền Bắc không được đọc các sách triết của Phạm Công Thiện, Freud, Kant, Kim Dung như người Miền Nam trước 1975, nên bây giờ ở Miền Bắc mới có cơn sốt đọc Kant, đọc Freud, đọc Kim Dung, đọc Phạm Công Thiện…
Với sự xuất hiện của in tơ nét, hiện nay trong nước ngoài nước có thể trao đổi dễ dàng và nhanh chóng. Biên giới địa lý và chính trị bị xóa nhoà trên net. Bây giờ vấn đề là tác phẩm ấy viết bằng tiếng Việt hay bằng tiếng gì. Chúng ta nên bắt đầu nói về nền văn chương Việt Nam trên net.

Trần Vũ: Bước vào thế kỷ 21, dường như Lê thị Huệ đang chọn vị thế đối mặt của một nhà văn, con đường đã được Jean Paul Sartre định nghĩa: “Chức năng đầu tiên của một nhà văn là không thỏa hiệp với mọi thứ quyền lực”?
Lê Thị Huệ: Trí thức đi một mình thì có thể toan tính. Trí thức mà đi với sáng tạo thì không thể nào còn toan tính nổi. Con người sáng tạo trong tôi khá mạnh. Tôi viết quyển “Văn Hóa Trì Trệ Nhìn Từ Hà Nội Đầu Thế Kỷ 21” trong một tinh thần phiêu lưu của một con đàn bà trí thức rất cô đơn. Tôi không thỏa hiệp với ai cả. Lúc tôi viết quyển sách, người bạn đời của tôi bảo tôi cắt bỏ nhiều thứ. Lúc đầu tôi còn cho đọc. Sau đó tôi không đưa cho anh đọc nữa.
Tôi là một người đàn bà may mắn. Những kinh nghiệm của tôi với đàn ông là những kinh nghiệm đẹp và nâng đỡ. Những người đàn ông nhập vào đời tôi đều đã cưng chiều và tôn thờ tôi. Nhưng khi tách mình ra khỏi kinh nghiệm cá nhân, trở thành con đàn bà trí thức, tôi thấy cuộc đời do những người đàn ông khác lèo lái thì tràn đầy bản chất súc sanh và tàn ác khủng khiếp.
Tôi phải thú nhận tôi lao vào sáng tác một cách hồn nhiên, yêu đời, và liều lĩnh của một con đàn bà viết văn. Vì là đàn bà nên tôi nắm bắt thực tế bén nhạy hơn. Vì là đàn bà nên tôi hay lo cho tha nhân và hay lo cho cuộc đời hơn. Và do đấy tác phẩm của tôi có vẻ như là một sự đối mặt với đời sống, với đàn ông.
Các câu hỏi của anh đẩy tôi vào tư thế chính trị quá xá. Lỡ rồi cho lỡ luôn. Tôi muốn nhân cơ hội này lặp lại lời mở đầu bài phỏng vấn, với những người đàn ông Việt Nam: Các anh đã bầy nhầy và làm tồi tệ xứ sở ấy quá lâu. Các anh có tất cả mọi thứ trong tay: quyền lực và một quốc gia với gần một trăm triệu dân.
Làm ơn thay đổi lịch sử đi!