Một trong những ký giả từng tham dự và tường trình về cuộc chiến Việt Nam là phóng viên chiến trường trẻ tuổi Joe Galloway của hãng thông tấn UPI, người có mặt trong trận đánh khốc liệt và đẫm máu đầu tiên giữa quân lực Hoa Kỳ và quân cộng sản Bắc Việt vào tháng 11 năm 1965 tại thung lũng tử thần Ia Drang, nằm phía Tây Bắc Pleime và cách Pleiku khoảng 60 cây số về hướng Tây Nam. Theo chân các tiểu đoàn không kỵ Mỹ đến tận nơi giao tranh, giữa những mịt mù súng đạn và xác người, ông chứng kiến và cảm nhận những người lính Mỹ đã anh dũng chiến đấu và hy sinh như thế nào nơi một vùng núi đồi xa xôi bên kia bờ đại dương nước Mỹ. Để rồi cùng với tướng hồi hưu Harold Moore – một trong những Tiểu Đoàn Trưởng tham dự trận đánh, ông đã viết lại cuốn hồi ký We Were Soldiers Once… and Young từng được dựng thành bộ phim We Were Soldiers, do tài tử Mel Gibson và Đơn Dương thủ diễn. Chuyên mục tuần này xin lược dịch và giới thiệu đến các bạn cuộc trả lời phỏng vấn của Joe Galloway với History Net, liên quan đến công việc và những trải nghiệm của một phóng viên chiến trường trong buổi đầu của cuộc chiến Việt Nam như thế nào. Bài dịch do chuyên mục đề tựa.
Huỳnh Thành Mỹ, phóng viên ảnh của AP bị tử nạn trên chiến trường. nguồn theonlinephotographer.typepad.com
(tiếp theo và hết)
History Net (HN): Có phải rất khó khăn khi chứng kiến những người lính mà ông theo chân bị tử trận?
Joe Galloway (JG): Một lần tôi theo một toán thiết xa lội nước suốt một ngày đêm. Ba ngày sau thì nghe tin cả toán này bị trúng mìn và chết hết. Những chuyện như vậy xảy ra gây ra một sự choáng váng dữ dội. Nhưng khi anh dự một trận đánh khốc liệt, dù xác người và thương binh nằm la liệt quanh mình, anh biết là anh cũng như người lính phải làm nhiệm vụ của họ, thì tôi cũng phải làm nhiệm vụ phóng viên của tôi.
Ảnh Joe Galloway tại tỉnh Long Khánh năm 1966 – nguồn warstoriesandveteranshistories.wordpress.com
HN: Vì không có thời gian để đối diện với nó?
JG: Có một lần tướng Moore dắt chúng tôi đến nghĩa trang Fort Benning sau một cuộc họp mặt những cựu chiến binh. Có một nữ phóng viên ảnh trẻ đang hỏi chuyện Tony Nadall – một đại đội trưởng trong trận Ia Drang, đang ngồi khóc trước một tấm bia của một trung sĩ truyền tin của ông tại bãi đáp LZ Xray năm xưa. Ở trận đó, khi năm người lính chạy theo Nadall dẫn đầu, thì họ bị lãnh ngay một tràng đại liên quạt ngang, gục ngã hết bốn người. Nadall không thấy và không nghe vì tiếng súng ầm ầm. Ông chỉ nhận ra điều đó khi dây bộ đàm đã bị kéo ra hết cỡ và khi ngó lại, thì thấy bốn người lính của mình đã nằm la liệt. Khi ông thấy tấm mộ bia thì ông khụy xuống và khóc nức nở. Hồi sau cô phóng viên mới hỏi, “Ông biết cũng quá lâu rồi, sao bây giờ ông còn khóc vậy?”. Nadall chậm nước mắt, “Cô biết là ngay lúc đó đâu thể ngừng lại để đau đớn, vì nếu dừng lại mỗi khi một người lính bị tử nạn thì tất cả chúng tôi sẽ bị tiêu diệt sạch. Chúng tôi phải tiếp tục nhiệm vụ và tự nhủ rằng mình sẽ trải lòng một lúc khác. Thì đây là lúc, đây là lần đầu tiên tôi được thấy tên của anh ta khắc trên tấm bia đá trắng này”.
HN: Thời gian có giúp ông xoa dịu những nỗi đau như vậy không?
JG: Chúng chẳng bao giờ ngưng nghỉ, chúng chẳng mất đi được. Hal Moore và tôi từng hy vọng, “Khi viết xong cuốn sách, nó sẽ khép lại cái vòng đó lại”. Lúc đó tất cả chúng tôi đều còn trẻ, chưa biết nhiều về đời sống và chưa hiểu hết những mất mát mà những người ngã xuống đã từ bỏ. Anh biết, họ không có được niềm vui khi có vợ, có con, có cháu, thậm chí với cả những điều phiền toái trong đời sống. Lòng biết ơn về sự hy sinh của người lính lớn dần khi anh hiểu thêm về giá trị của cuộc sống mà họ bị mất. Vì vậy năm tháng có trôi qua cũng chẳng làm nó dễ dàng đi, mà có khi nỗi đau càng nặng nề hơn.
HN: Ông có lúc cũng phải là người lính?
JG: Chỉ lúc nào đó thôi, khi trận đánh khốc liệt quá mà tôi nghĩ có thêm tôi cũng đỡ phần nào. Và tôi cũng chẳng lỗi gì. Mình cũng giận điên khi địch quân cứ nhắm mình mà bắn. Anh biết là họ đưa cho đám phóng viên chúng tôi tấm thẻ nhỏ xinh xắn, trong đó có hàng chữ li ti ghi rằng, tôi là dân sự không đánh trận, có quân hàm tương đương Thiếu Tá trong quân đội Hoa Kỳ. Để lỡ bị sa vào tay địch thì tôi sẽ được đối xử tương đương cấp bậc một Thiếu Tá. Nhưng anh biết là làm gì có cơ hội cho anh đưa tấm thẻ đó ra khi có những tên địch cắm lưỡi lê trên đầu AK xông vào mình. Tôi nghĩ là họ đâu có ký công ước Geneva và tôi cũng vậy.
Trung Tá Hal Moore, Chỉ huy Tiểu đoàn 1, Lữ Đoàn 7, tại thung lũng Ia Drang Việt Nam. nguồn commandposts.com
HN: Hal Moore gây ấn tượng cho ông ra sao?
JG: Tôi chứng kiến ông xông pha trong chiến trận, quan sát ông nơi hậu cứ và tôi thấy được đó là một người sinh ra để làm một người lính, để trở thành một chỉ huy. Chúng tôi biết nhau 46 năm nay và xem nhau như bạn thân. Ông là người ít thay đổi nhất qua bao nhiêu năm nay. Một con người chính trực, đạo đức. Moore thích kể là ông đứng đầu trong nhóm bét lớp ở West Point, ông vất vả để vào và tốt nghiệp West Point, rồi áp dụng kiểu chỉ huy của ông. Trên tàu sang Việt Nam vào Tháng 7 năm 1965, ông mang theo một thùng sách mà ông đang đọc về cuộc xung đột, về đất nước và con người ở đó. Ông ráng am tường càng nhanh để có thể dụng binh hiệu quả hơn. Ông là một chỉ huy mặt trận tài giỏi nhất mà tôi từng gặp. Ông có một nền tảng hiểu biết ăn nhịp với bản năng của ông, hừng hừng như ngọn đuốc. Ở trận Ia Drang, chỉ mình ông là người chắc chắn là chúng ta không thua, chúng ta sẽ đánh bại địch quân. Mọi người khác, kể cả sói già thượng sĩ Plumley từng đánh nhau qua ba cuộc chiến cũng còn nghi ngờ. Chỉ có mình Moore cầm chắc là chúng ta có thể làm được, phải làm được và sẽ thắng, hay ít nhất cũng còn tử thủ được.
HN: Mối quan hệ sâu đậm này có từ đó và những cuộc hành quân sau này?
JG: Sau trận Ia Drang, chúng tôi liên lạc nhau thường xuyên hơn. Mỗi khi lên kế hoạch tác chiến, Moore đều nhắn hay gởi trực thăng đến bốc tôi, có khi tôi còn được dự cả cuộc họp ban tham mưu. Tôi cứ qua lại với Tiểu Đoàn Một, mà cho đến nay tôi còn coi nó như nhà của tôi trong quân đội. Tôi gặp Moore thường xuyên, rồi sau đó cũng còn theo chân tiểu đoàn này khi nó có chỉ huy khác trong suốt thời gian chuyến công vụ đầu của tôi. Moore được rút về nước sau khi mãn hạn nhưng ông không muốn, cứ lần lữa, “còn một việc nữa cần làm”. Người kế nhiệm ông phải chờ thêm cả tháng, chờ ông làm thêm vài cuộc hành quân trước khi ông về nước.
Một tấm hình của Horst Faas (phóng viên tử nạn tại Việt Nam)- nguồn wwno.org
HN: Còn ông thì cuối cùng cũng mãn chuyến công vụ đầu sau 16 tháng?
JG: Chuyến công vụ tôi mãn nhiệm vào Tháng Chín năm 1966, và thề có Chúa là tôi còn muốn ở lại thêm, nhưng các bạn bè quân ngũ của tôi, như các Thủy Quân Lục Chiến hay Hal Moore, thời gian đồn trú chỉ 12 hay 13 tháng. Hơn nữa, bất thình lình, tự nhiên anh phải hành quân với những tay mơ mới toanh và đó là điều cũng nguy hiểm. Thống kê đã chỉ là tân binh trong ba tháng đầu tiên thì rủi ro chiếm đến 65-70 phần trăm số thương vong trong năm. Nếu anh hành quân với họ thì anh cũng bị nguy hiểm và hồi hộp, cho đến khi họ học được những lỗi lầm mà anh từng thấy trước đó. Thỉnh thoảng tôi đi theo các cuộc hành quân cùng với một phóng viên quay phim người Việt làm việc cho UPI. Anh ta là một cựu quân nhân.Chúng tôi cũng mang đồ lính, bám theo cuộc hành quân qua rừng cao su, anh nói nhỏ tai tôi, “Đây là tình huống không hay chút nào, họ bị hở sườn”. Anh ta và tôi đều biết là đám Việt Cộng có thể núp đâu đó vài trăm mét phía trước và có thể bất thần tấn công thốc sườn đội hình. Ví dụ gặp vậy thì tôi tìm cách bắn tiếng tế nhị với vị chỉ huy. Có người nghe tôi mà cũng có khi có người hét vào mặt tôi, “Mày là thằng cóc khô nào mà dạy tao cách hành quân”. Gặp kiểu đó thì tôi đưa tay chào thua và nói, “Nếu có chuyến trực thăng tới, ông cho tôi và người quay phim rời khỏi nơi đây”. Anh biết là trong những tình huống như vậy thì cách tốt nhất là rời sớm cho rồi.
HN: Ông có ngạc nhiên khi thấy mình còn sống sót sau hơn hai năm tường trình về cuộc chiến?
JG: Khi ấy tôi 23 tuổi và sống chung với các đồng nghiệp ở Sài Gòn, chúng tôi vẫn hay đánh cuộc xem ai có thể sống đến sinh nhật thứ 25 của mình. Một số người đã không làm được điều đó. Tôi là người may mắn nhất mà anh còn cơ hội nói chuyện. Những tường trình, phóng sự về cuộc chiến này được mua bằng một cái giá khủng khiếp. Khoảng 70 bạn đồng nghiệp tôi đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình để có những bài báo, tấm ảnh về cuộc chiến Việt Nam.
HN: Cũng có người bảo truyền thông đã đâm sau lưng người lính, đã làm cuộc chiến bị thất bại?
HN: Chẳng phải truyền thông, chẳng phải tôi, mà cũng chẳng phải là Peter Arnett hay Walter Cronkite (Chú: Hai ký giả nổi tiếng thế giới, từng tường thuật và có quan điểm bất lợi cho quân đội và chính phủ Hoa Kỳ trong thời gian chiến tranh VN). Cuộc chiến có bị thua là do mấy đời Tổng thống tại 1600 Pennsylvania Avenue (địa chỉ tòa Bạch Ốc). Tất cả họ đều nhúng tay vào nó. Sau chiến tranh, nó dễ cho mấy ông tướng cay đắng, than van là truyền thông đã làm cuộc chiến bị thua ra sao. Chúng tôi đâu làm điều đó. Chúng tôi đâu làm thua trận. Truyền thông đâu có đủ quyền năng để khởi đầu hay kết thúc một cuộc chiến. Tất cả những gì chúng tôi đã làm chỉ là nhiệm vụ của mình và chỉ cố tường thuật trung thực về những gì đang xảy ra mà thôi.
ĐYT