Menu Close

Còn đó Sao Trên Rừng

Nhà thơ Võ Chân Cửu nổi tiếng về thơ từ trước 1975. Những năm gần đây, anh viết bút ký và tùy bút văn học, gồm trong hai tập 22 Tản Mạn và Theo Dấu Nhà Thơ. Cả trong hai cuốn này, Võ Chân Cửu đều nói về thơ. Và theo nhà văn Chu Ngạn Thư, “Viết về thơ mà lôi cuốn được người đọc, thì các nhà thơ có ưu thế vì bút lực dồi dào, như Võ Chân Cửu đang chứng minh…”      

saotren rung 01

Nguyễn Đức Sơn – tranh Đinh Cường, 1989

Sau đây, xin giới thiệu một bài của Võ Chân Cửu viết về Nguyễn Đức Sơn trong tập “Theo Dấu Nhà Thơ”.

NGUYỄN & BẠN HỮU

 

Cao nguyên Bảo Lộc ở cuối dãy Trường Sơn với những tịnh cốc nổi tiếng, hơn 40 năm về trước còn là nơi tụ hội nhiều nhà sáng tác. Như Nhất Hạnh, Trần Thiện Thanh, Nguyễn Ðức Sơn…

Do khá gần Sài Gòn nên người thích khoa thiên văn vẫn chọn về đây khi có các sự kiện lớn. Rạng sáng ngày 14-12- 2013 khi ngắm mưa sao băng, có người bỗng nhắc: kỳ diệu sao trên rừng ! “Sao Trên Rừng” còn đây không?

Cộng nghiệp thơ

Sao Trên Rừng là bút danh thời khởi nghiệp của Nguyễn Ðức Sơn (NÐS) ở các tạp chí Sáng Tạo, Văn Nghệ… từ các năm 1959-1960. Khi xuất bản tập thơ đầu tay “Những Bài Tình Ðầu” gồm 3 phân khúc Bọt Nước, Hoa Cô Ðộc (1965), rồi Lời Ru (1966), ông vẫn xưng bút hiệu này. Sách phát hành, NÐS lập tức nổi tiếng như một thi sĩ kỳ dị – vì những tuyên bố thành thật nhưng mang tính tự đại in trên bìa sách. Khi chuẩn bị cho nhà xuất bản An Tiêm in tập thơ Ðêm Nguyệt Ðộng (1967) để làm sính lễ đi cưới vợ, ông ký hẳn tên thật. Tên tuổi NÐS còn dữ dội với các tập truyện ngắn như Cát Bụi Mệt Mỏi (1968), Cái Chuồng Khỉ (1969), Xóm Chuồng Ngựa (1971). Có nhà điểm sách và nhiều độc giả cho ông là một “thiên tài độc ác”. Vì bằng mạch văn, ông đã đẩy người đọc đến chỗ tận cùng của trí tưởng. Cho nên, qua cuộc khảo sát về “Những cây bút hay nhất” do Tạp chí văn nghệ Khởi Hành thực hiện năm 1971, NÐS đã lọt vào Top 5. Mặc dù vậy, về sau nhắc đến ông, mọi người vẫn ấn tượng là một thi sĩ. Như từ thuở đầu tiên ông đi vào sáng tác :

Một đêm sao ở trên rừng

Ðua nhau rụng xuống chào mừng nhân gian

Hồn tôi cây cối liên hoan

Rưng rưng tôi thấy trăm ngàn ước mơ

Tuổi vàng giống mộng trời thơ

Lớn lên tôi chết bên bờ hư không

(Tập “Bọt Nước-Những Bài Tình Đầu”)

Bài thơ đầu tiên đã giải thích vì sao ông chọn bút hiệu, cũng “ngầm” tiên đoán số phận (cũng là định mệnh?) của cuộc đời mình. Nhưng nó thành thật và hiền hậu quá; không như người đọc cảm nghĩ rằng càng dấn thân vào chơi, NÐS càng trở nên kỳ dị (dù giọng điệu vẫn rất thành thật) khi cố tình đưa lời miệt thị từ người có bằng cấp, trường đại học, và đến cả những người viết lách cùng thời. Tiếng đồn rằng nếu ghét ai, ông còn viết thư gửi lời chê tới tận nơi!

Nhà thi sĩ “quái dị” ấy đã tự nguyện bỏ trường đại học, và ăn chay trường, tự kiếm sống bằng nghề dạy học.

Quê hương ở miền đầm phá ven biển Tri Thủy (Ninh Thuận), ông sớm hít thở bầu không khí hoang vu. Có thời gian, ông sống ở vùng đồi núi cao Ðơn Dương trên đường từ Ðà Lạt xuống Phan Rang. Nên khi đã lấy vợ, trốn lính, ông đã lên miền B’lao (Bảo Lộc), là nơi cũng có khung cảnh hoang sơ, lại thuận đường đi về Sài Gòn để “náu thân nơi nhà hoang”. Nguyễn Miên Thảo (NMT) là một trong số rất ít bạn trẻ được ông chọn thơ để đăng trên Tạp chí Mặt Ðất (xuất bản bất định kỳ) do ông chủ trương năm 1966. NMT cho biết ở lớp dạy tiếng Anh tại nhà trọ riêng, NÐS đã sẵn sàng đuổi học và trả tiền học phí trở lại ngay cho bất cứ học sinh nào không thuộc bài đã học bữa trước! Thi sĩ, thầy giáo NÐS muốn cuộc đời này luôn luôn phải tuyệt đối như ý mình chăng?

saotren rung 01

Nguyễn Đức Sơn và Tuệ Sỹ NGUỒN THEDRUNKENBOAT.COM

Cùng được chọn bài với NMT để có mặt trên “Tạp chí Mặt Ðất” là Thái Ngọc San (TNS). Khoảng năm 1970, tôi và tình cờ cùng có mặt trước khoảng sân NÐS đang ở nhờ trong một khu nhà trong trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc. Mấy ngày trước, vợ NÐS đã sinh đứa con trai đầu lòng, đặt tên là Thạch. Cả ba ngồi đốt lửa sưởi ấm. Tôi và TNS cùng chiêm nghiệm niềm hạnh phúc của người thi sĩ có cuộc sống lập dị mới được làm cha. Hạnh phúc lần lượt được ông thể hiện trong sáng tác thơ, theo tháng năm cùng đứa trẻ lớn lên:

Nhìn con tập lật

Nắm tay lật úp đi con

Co thân tròn trịa như hòn đá lăn

Muốn cho đời sống không cằn

Tập cho quen mất thăng bằng từ đây.

Vợ NÐS lần lượt đẻ năm một. Hạnh phúc của cha và con ngày càng nhiều thêm. Như:

Theo cha đốt cỏ ngoài rừng

Nâng niu mẹ ẵm theo mừng không con

Có vài chiếc lá còn non

Gió theo lửa khói tan giòn trên không

Nắng tà trải xuống mênh mông

Bước theo chân mẹ, cha bồng hư vô.                                                

Đốt Cỏ Ngoài Rừng – Tập san Văn 1972)

Ngày đó, tôi chỉ “lên chơi rồi về” với Bảo Lộc và NÐS. Còn TNS nương náu ở đây khá lâu (vì anh đang trốn lính), và tiếp xúc với NÐS cũng nhiều. Ðến khoảng 1972, TNS về Sài Gòn làm Thư ký Tòa soạn cho tạp chí Ý Thức – tờ văn nghệ do các văn nghệ sĩ Miền Trung tự nhận có tinh thần “nhập cuộc” lập ra. Sau đó không lâu, anh viết truyện ngắn Bầy Thú Hoang Dã miêu tả cảnh sống của gia đình NÐS. Truyện này được đăng trên Văn. Trong truyện có ý nói là người cha khá ích kỷ, luôn luôn bắt các con phải theo ý mình. TNS lúc này đã có cái nhìn của một người làm văn nghệ vì xã hội. Sau 1975 một vài năm, bối cảnh và nhân vật cũng như mạch văn của Bầy Thú Hoang Dã một lần nữa lại xuất hiện trong một truyện ngắn mới của TNS trên Tạp chí Sông Hương (anh giữ công tác Thư ký Tòa Soạn). Qua 2 truyện ngắn này, dư luận giới sáng tác râm ran nghi ngờ về tính tình của NÐS.

Khát vọng

Con người thật của nhà thơ có cuộc sống lập dị này ra sao ?

NMT từ Huế vào Sài Gòn làm văn nghệ vào năm 1965. Trong cảnh đói rách, NMT có thời gian ngắn phải nương tựa nơi nhà trọ của NÐS ở Bình Dương. Cùng với Ðại Ðức Thích Thanh Tuệ, Phạm Công Thiện, giáo sư Bửu Ý, anh là thành viên của họ nhà trai trong lễ cưới vợ cho NÐS tại thị xã Thủ Dầu Một. Mới đây nhất, hồi cuối năm 2012, NMT lên Bảo Lộc thăm lại NÐS lần thứ 2 kể từ sau biến cố 1975 (lần thứ nhất vào năm 2011), NMT nửa đùa nửa thật bảo rằng sau bài tạp bút kể chuyện đám cưới NÐS, anh sẽ kể chuyện NÐS là “cơ sở cách mạng”. Nguyên do có một lần vào đêm giao thừa ở Bình Dương, NÐS nấu một nồi xôi rất ngon. Nhưng đã qua phút giây trừ tịch mà ông vẫn chưa chịu dọn ra ăn dù cả hai đang rất thèm. Bởi vì NÐS bảo “đợi nghe “lời chúc Tết” trên đài Hà Nội xong mới được ăn”!

saotren rung 01

Nguyễn Đức Sơn – tranh Đinh Cường, 2011

Các văn nghệ sĩ dưới bất kỳ triều đại nào cũng đều rất sợ bị mang tiếng xu nịnh nhà cầm quyền. Nhưng thật bất ngờ là lần này, chính NÐS lại giả bộ sốt sắng: “ông viết lẹ đi ! Ðể các cán bộ bỏ quy chụp rằng tôi đưa vợ con lên miệt Phương Bối lánh đời là vì ngày xưa tôi sáng tác cho chế độ cũ; chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa thực dân mới Mỹ ngụy”!

Ngày trước 1975 NÐS vẫn luôn miệng chửi đế quốc Mỹ. Những vần thơ thuở ban đầu của NÐS nặng tình với bóng dáng quê hương. Có những câu dễ khiến cho có người nghĩ rằng ông “thiên tả”. Như :

“…quê mình ai còn ai mất

đi rồi gươm súng mùa thu

khóc mãi từng đêm lưu lạc

nói ra thêm oán thêm thù

ngõ về làm sao ngài ngại

xe cộ có dễ dàng không

kháng chiến người đi chưa lại

lúa khô héo cả ruộng đồng…”

(bài Quê Hương – Những Bài Tình Đầu”

Khi đến tuổi chính thức vào đời, như nhiều văn nghệ sĩ khác, NÐS khá bị dồn nén trước sự hấp dẫn của những nàng thiếu nữ. Cảm xúc ấy mãnh liệt chạy vào thơ ca, ra những lời lẽ rất thực:

…Năm mười sáu có lần anh ngó thấy

Em ở truồng ngoe nguẩy cuối vườn trăng

Hồn thảo dã trong anh vừa thức dậy

Suốt bầu trời ướt mượt cả lông măng…

Vốn là người thích sống với thiên nhiên, nên cảm xúc về thân thể có khi lại hòa quyện với những ám ảnh về nỗi cô đơn trong cõi hoang vu. Như trong bài “Ði Thăm Bạn Sắp Ðẻ Ở Di Linh”:

Sắp đẻ ở Di Linh cây cối chào chị

Sắp đẻ ở hư không rừng và chị ôm nhau hát

Tôi giấu mặt đi ven hồ lạnh giá

Căn nhà gỗ phần mộ thanh xuân

Những ván thông dày đặc gỗ quan tài

Của tóc của chị của tình nhân

Của dương cầm bỏ phế đúng một năm

Sắp đẻ ở Di Linh cô đơn hùng dũng

Chị thu mình như một con mèo mun

Chị thu mình như một vũ nữ Ba Lan

Chị thu mình như một dĩa hát cũ

Oh, my tormented heart

Buổi chiều chết trên cây thánh giá

Hãy quên tôi như một mũi tên

Hãy quên tôi như một loài chim đêm

Anh đưa chị về đây để tự vận

Chị thổ huyết ba lần tôi chứng kiến

Khi rừng già thấp xuống thấp xuống

Buổi sáng chị tắm sương mù

Buổi chiều chị đốt cỏ để hong đời chị

Hiu hắt như đời tôi chị đứng lên

Hai mươi bảy năm tuột mất thanh xuân

Ôi nắng vàng dòng thác Gougah

Rừng và chị ôm nhau hát

Sẽ đẻ ra một đứa con

Rừng và chị ôm nhau chết.

Bài thơ rất hay này được NÐS viết ra khi anh còn rất trẻ, bằng thể điệu gần với trào lưu sáng tác hiện đại. Khi ấy anh chưa gia đình riêng. Có lẽ cần lui lại một chút thời gian để rõ thêm về dòng chảy của 20 năm văn học Miền Nam (1954-1975). Vào khoảng những năm đầu thập kỷ 60, với sự chiếm lĩnh thị trường báo chí văn học nghệ thuật, tạp chí Sáng Tạo với thế hệ các nhà thơ cổ vũ cho thể thơ tự do gần như chiếm ưu thế. Ở một số “tuyên ngôn”, có khi họ mạnh tay chê bai, xóa bỏ những thành tựu của các thể thơ truyền thống. Nhưng với bài thơ có cách diễn đạt mới lạ như “Ði Thăm Bạn Sắp Ðẻ Ở Di Linh”, nhà thơ trẻ Sao trên Rừng vốn rành rẽ nghệ thuật sáng tác với các thể thơ truyền thống, đã chứng minh rằng thể loại diễn đạt không phải là sự quyết định, ai cũng có thể “dụng công”. Ðể làm ra một bài thơ hay, cái quyết định là phần hồn của người sáng tác. Tức mình vì thị trường sách báo bị chiếm lĩnh bởi một số “phe nhóm”, NÐS luôn khao khát có chỗ để lên tiếng. Nên ông đã tự lập ra một “Tạp chí xuất bản bất định kỳ” mang tên Mặt Ðất khi không có một đồng xu dính túi. Tên Mặt Ðất còn biểu thị mơ ước tự do giữa cõi bao la đất trời. Về sau, đến khi chơi thân với lớp làm thơ trẻ hơn như TNS, NMT và tôi, ông vẫn còn biểu lộ mơ ước về tự do trong thị trường sáng tác, xuất bản sách báo văn nghệ (Những khao khát này tôi đã có dịp viết ra trong sách “22 tản Mạn-NXB Hội Nhà văn 2013, Công ty Phương Nam Book phát hành).

Những nghịch lý

Không phải đợi đến sau 1975 NÐS mới dắt cả vợ con bỏ lên rừng sống cuộc đời “hái lượm” như nhiều người vẫn nghĩ. NÐS vốn chỉ biết sinh sống bằng nghề dạy học và sáng tác. Mà cả hai, vào nhiều năm đầu sau chiến tranh, đều phải ép vào khuôn khổ. Cuộc đời mỗi người đều phải gánh chịu mọi diễn tiến khi lựa chọn một cách sống. NÐS vì thiên bẩm nghệ thuật thi ca, nên ông rất quyết liệt. Ông phải chịu nhiều sự bất hạnh và tai tiếng của người đời. NÐS có lúc đã tự “mắng” mình như “cây bông” trồng “chật chỗ”. Và khoảng năm 1988, ông phải chịu nỗi đau lớn khi một đứa con vì đói ăn trúng nấm độc mà chết. Thể thơ “hai chữ” như dưới đây được ông sử dụng nhiều từ khi sáng tác ra bài thơ dài “Du Sỹ Ca”-1973:

Bài thơ làm trên đường đưa đám đứa con trai chết đói đến nơi ngàn thu an nghỉ

Bao năm

Thui thủi

Mần củi

Cuốc đất

Quên mất

Trời xanh

Ném nhanh

Sách vở

Người ở

Cùng đá

Vui quá

Nhà cây

Tới đây

Thiên đường

Hý trường

Ðâu phải

Sao cãi

Lời cha

Bò ra

Gò mả.              

Có lẽ nỗi đau ấy rồi cũng sẽ phôi phai. Vì từ những ngày đầu làm thơ, ông đã sớm nhận ra rằng :

Một tâm ảo tượng

xe chênh bánh giữa luân hồi

ưu bi chở ngập bên trời bao la

ngày chưa sụp bóng ta bà

đã nghe chừng Hội Long Hoa đến rồi

một ngài Di Lặc xa xôi

một tâm ảo tượng tôi ngồi thâu đêm.

(Lời Ru – Những Bài Tình Đầu)

Từ năm 1972, nhà thơ Viên Linh, thư ký tòa soạn tuần báo văn nghệ Khởi Hành đã cho rằng:… “Theo tôi thì ở Miền Nam Việt Nam hiện nay chỉ có vài thi sĩ: Bùi Giáng, Nguyễn Ðức Sơn, Trần Tuấn Kiệt…” (Kỳ báo 18-5-1972).

Theo quan niệm được nhiều người công nhận thì nhà thơ có thể nhiều, còn thi sĩ là người có cuộc sống và làm thơ hòa lẫn. Nhận định ấy đến nay vẫn đúng.

Và vẫn còn đó, “Sao Trên Rừng”.

Võ Chân Cửu – Theo Dấu Nhà Thơ