Menu Close

Làm hòa với trái đất – Nhìn lại giải Nobel Hoà Bình 2007

Tháng Mười, 2015. Ðã vào thu, mà vẫn có những ngày nóng bức như mùa hè. Ðêm ngủ phải mở quạt. Quạt chạy bằng điện mặt trời. Xe cũng chạy bằng điện mặt trời. Từ khi trở lại Mỹ sau một năm sống ở Bắc Âu năm 2004, tôi đã làm tất cả mọi việc trong tầm tay và đời sống hằng ngày để giảm ‘vết chân’ CO2 từ cá nhân và gia đình mình. Hai vợ chồng son bắt đầu xây tổ ấm, tôi ‘vận động’ chồng gắn hệ thống điện mặt trời. Anh nói, “Mình đang túng mà Cưng! Mắc quá!” Tôi nài, “Môi trường còn túng hơn mình!” 2009, chúng tôi ‘trồng rừng’ trên nóc nhà. Mỗi tháng, tùy nắng nhiều hay ít, ‘rừng’ của chúng tôi thay đổi mật độ cây: 16 cây, 18 cây, 15 cây. Rừng không có lá, nhưng làm xanh thiên nhiên, làm ổn định khí quyển, làm an lòng người có trách nhiệm với môi trường, làm đèn sáng mỗi đêm để tôi đọc sách cho con.

lamhoa voi traidat 01

Hôm đi mua xe hơi điện, các con tíu tít. “Xe này không có khói hả Mẹ?” Gia đình nhỏ của chúng tôi tiết kiệm khi cần, để dùng đúng chỗ, như để mua solar panels, như để trả payment cho xe hơi điện. Ðể mua cho chính mình một nếp sống có trách nhiệm với môi trường. Một trong những từ vựng đầu tiên tôi dạy con là ‘compost’ và ‘recycle,’ để mỗi đứa bé từ khi chập chững biết đi đã có trách nhiệm bảo vệ môi trường. Con trai lớn đi học mẫu giáo. Cái giỏ đựng cơm trưa bị sút chỉ. Cô giáo nhắc, “Con về nói Mẹ mua giỏ khác.” Con trai về nhà nói, “Mẹ ơi, Mẹ vá lại dùm con. Cô giáo nói mua giỏ khác, nhưng con biết, Mẹ may lại được.” Trồng rau trồng cà và trái cây cho con. Con hiểu, trái chín trên cành đến từ vườn nhà, không mất công xe tải hạng nặng chở đi đường xa để mang đến, tránh nhiều khí thải cho môi trường.

Làm bao nhiêu việc, nhưng tôi vẫn áy náy với Mẹ Ðất. Vì có những điều lệ thuộc bắt buộc, những điều ngoài tầm tay và ở trong nếp sống của thế kỷ 21. Như những món đồ tôi mua được làm ở khắp nơi trên thế giới. Chúng đã băng qua ngàn dặm để đến Quận Cam. Trên đường, chúng đã để lại những vết đen trên bầu khí quyển. Khiến băng tan nhanh bất thường. Khiến tuyết rơi bất chợt. Khiến bốn mùa chệnh choạng. Những biến chuyển trong thời tiết trên thế giới trong những thập niên qua là những điềm bất an.

Hết người thích hợp để chọn rồi ư?

Giải Nobel Hòa Bình năm 2007 gây xôn xao dư luận trong một số thành phần dân chúng của Quận Cam. Ðó là vì có nhiều người cho rằng Al Gore đâu đã làm được gì cho nền hòa bình thế giới – ngoài việc lặp lại điệp khúc từ slide show của ông về nạn hâm nóng quả đất, về một ‘sự thật khó chịu.’

Có người còn lập luận rằng, không còn ai để trao giải, nên Ủy Ban Nobel mới chọn Al Gore (tuy các cá nhân này không đả động gì đến Liên Hiệp Quốc, đồng nhận giải). Thậm chí, có người còn nghĩ rằng, rồi đây, sẽ chẳng còn ai xứng đáng để lãnh giải Nobel Hòa Bình nữa, vì… nhân loại đã có hòa bình.

Thật ra, nhân loại đâu đã có hòa bình: con người vẫn còn vật lộn với đói nghèo, chiến tranh, tranh chấp, bất công, thiếu bình đẳng, bóc lột lao động, bệnh tật, thiên tai, hiềm khích tôn giáo và chủng tộc, và nhiều nữa những vấn đề của cả xưa và nay. Hòa bình không chỉ là sự vắng bóng của giáo gươm súng đạn. Hòa bình là sự sung mãn của tinh thần nhân bản và sự bảo đảm cho một đời sống có nhân phẩm. Lại nữa, vẫn còn rất nhiều cá nhân luôn liên lỉ dấn thân cho nhiều lãnh vực khác nhau trên thế giới. Nếu chỉ lược qua người Việt Nam, thì cũng đã có rất nhiều nhà hoạt động hoặc nhà tư tưởng xứng đáng được đề cử cho giải Nobel.

Dự lễ trao giải Nobel

Ngày 10 tháng 12 năm 2004, với tư cách là một Fulbright Scholar, tôi được tham dự buổi lễ trao giải Nobel tại thủ đô Stockholm của Thụy Ðiển, tổ chức tại Thính Ðường tọa lạc trong khu Phố Cổ của trung tâm thành phố. Sự hiện diện đó là cả một sự đãi ngộ và một cơ duyên mà ngay cả người dân Thụy Ðiển cũng không dám ao ước. Nhiều người bạn bản xứ đã bảo tôi rằng, họ cũng chưa bao giờ gặp một người được dự lễ trao giải Nobel.

Vào ngày lễ phát giải Nobel, nhiều người dân Thụy Ðiển trực tiếp theo dõi qua hệ thống vô tuyến truyền hình. Họ cũng ăn mặc tươm tất, bày một bữa ăn thịnh soạn, và dùng ly tách muỗng nĩa theo đúng kiểu mẫu của bữa tiệc khoản đãi tại tòa đô chính. Và nấu đúng thực đơn của buổi tiệc Nobel năm trước đó. Ðó là vì thực đơn của buổi tiệc Nobel hằng năm chỉ được tuyên bố ngay vào đúng giây phút khai tiệc.

Giải Nobel không phải là chuyện làm qua loa cho xong. Tuy những người nhận giải Nobel không phải lúc nào cũng là những nhân vật lẫy lừng được cả thế giới biết đến, nhưng quá trình đề cử và bình chọn tuân thủ theo một số luật định đã được đề ra từ trước.

Giải Nobel là hiện thực của bao nhiêu trí tuệ và cân nhắc, góp phần định hướng cho tương lai của nhân loại qua việc công nhận những đóng góp thức thời và tiên phong cho những bước tiến mới. Hơn nữa, giải Nobel không chỉ là điểm son của Thụy Ðiển, mà còn là niềm kiêu hãnh của người xứ Bắc Âu. Họ coi đó là đóng góp của họ cho thế giới, là một phần rực rỡ nhất của vùng đất lạnh nhu mì này.

lamhoa voi traidat 01

Tác giả tại lễ trao Giải Nobel

Tình yêu thiên nhiên của người dân Bắc Âu

Trong một cuộc hội nghị tại Bảo tàng viện về Sắc Tộc tại Stockholm năm 2004, tôi có hỏi một vị bác sĩ sắp về hưu về tình yêu lớn nhất của ông dành cho Thụy Ðiển. ‘Bác yêu gì nhất về quê hương của Bác?’ tôi hỏi. Sau một hồi lâu suy tư, ông nhẹ nhàng đáp, ‘Thiên nhiên.’ Và khi tôi mỉm cười hưởng ứng, ông từ tốn lặp lại, ‘Thiên nhiên.’

Câu trả lời ấy không phải là một trường hợp hiếm hoi, mà là một mẫu số chung cho rất nhiều người dân Thụy Ðiển. Họ rất yêu thiên nhiên. Không chỉ thế, họ rất tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên. Ý thức trách nhiệm đối với thiên nhiên được thể hiện rõ trong giáo dục công lập ngay từ lớp vỡ lòng. Học sinh được dạy rất kỹ về phương thức recycle, nên có nhiều con em Việt Nam sinh trưởng ở Thụy Ðiển đã về nhà ‘hướng dẫn’ lại cho phụ huynh và ‘giám sát’ khi bố mẹ không làm đúng theo quy định. Ý thức bảo vệ môi trường ấy cũng được thể hiện trong các ký túc xá đại học, khi các sinh viên theo quán tính tự mình giữ gìn một nếp sống xanh.

Chiếc cầu dài nối thành phố Malmo ở cực Nam của Thụy Ðiển với thành phố Copenhagen của Ðan Mạch là một bằng chứng rõ rệt khác. Phải qua nhiều kiến nghị và so hơn tính thiệt, chính phủ Thụy Ðiển mới cho phép chiếc cầu ấy được thi công. Người ta phải ước lượng xem thể tích lượng khí thải do xe cộ qua lại trên cầu hằng năm sẽ là bao nhiêu, và có ảnh hưởng như thế nào đối với môi trường. Những Ðảng bảo vệ thiên nhiên đã giằng co quyết liệt để chống đối và trì hoãn công trình này.

lamhoa voi traidat 01

Hái dâu xanh trong rừng Lappis, Stockholm, mùa hè 2005

Một nữ sĩ Việt sinh sống tại Berlin đã thốt lên, ‘Cảnh thiên nhiên ở Thụy Ðiển đẹp vô cùng, nhưng lái xe đi mãi chẳng thấy người đâu cả!’ Thật vậy, những cánh rừng xanh ngút ngàn được giữ gìn và bảo quản như tài sản chung của mọi người, để phục vụ cho những sinh hoạt dã ngoại hay thể thao, bên cạnh một ích lợi hiển nhiên là rừng xanh giúp cho quá trình điều hòa sinh thái và giúp duy trì một không khí trong lành.

Tuyên ngôn hòa bình

Tôi không lấy làm lạ khi Al Gore được chọn cho giải Nobel Hòa Bình 2007. Trái lại, tôi cho rằng có nhiều lý do khiến cho Ủy Ban Giải Nobel chọn Al Gore. Họ chọn ông, dĩ nhiên vì ông là một chiến sĩ quyết liệt cho sứ mạng bảo vệ trái đất và một cơ hội sống còn của con người giữa thiên nhiên đang lở loét. Họ chọn ông, vì ông là một nhà tư tưởng đã đi trước thời đại và cố hết sức để đồng hành với thế giới trong nỗ lực bảo vệ môi sinh. Họ chọn ông, vì ông ‘đồng khí tương cầu’ với tinh thần chuộng hòa bình và chống chiến tranh của người Bắc Âu – trong cuộc chiến vũ trang hay trong cuộc hòa hoãn với thiên nhiên.

Ở thời điểm này đây, cả cộng đồng nhân loại cần làm hòa với Mẹ Ðất – và đó là thông điệp cốt lõi trong việc trao giải Nobel năm 2007.

TGT