Menu Close

Tâm sự loài cá thác lác còm trong hồ kiếng – Kỳ 2

Hai chị em thác lác còm chúng tôi dựa vách mà nghe hai người lớn tuổi nói chuyện, nhiều khi không hiểu hết điều gì còn ẩn tàng trong câu nói của hai người. Nhưng có điều chắc chắn rằng lươn không phải là

cá và cá không phải là lươn, nên cuộc sống chung giữa lươn và cá không biết có trục trặc gì hông, chỉ có mấy chị cá thác còm ở nhà người bạn trẻ mới biết được; ngoài ra, mọi bàn bạc về điều này đều vô nghĩa, chỉ là bàn trớt mà thôi vì mình cũng chưa lâm trận như vậy.


Dường như trong căn phòng nhỏ của ông Hai qua mấy tháng nay, chúng tôi nhận ra không có gì thay đổi nhiều ngoài cái việc bên hồ cá sặt có thêm một cặp cá sặt bướm ông Hai mới mua về cũng từ Rhode Island. Tính ra có tất cả là bốn cặp cá sặt với bốn sắc màu khác nhau, không cặp nào giống với cặp nào. Từ bên này hồ nhìn sang bên kia hồ cá sặt với ba bụi bông súng xum xuê lá một màu xanh biêng biếc, chúng tôi nghe ông Hai nhắc lại với bà Hai những ngày tát vũng, tát mương ở dưới ruộng. Cá sặt muôn trùng, đủ loại, biết làm gì cho hết ngoài ba cái mắm, cái khô. Nào sặt rằn, sặt bướm, sặt điệp không thiếu loại nào nhưng bản tính cá sặt lại hiền không cắn mổ gì nhau và đặc biệt với cái miệng nhỏ, cá sặt không ăn câu như cá thác lác còm hay các loài cá khác. Mỗi một kỷ niệm qua đi của những ngày bắt từng rổ cá sặt trên lung, trên đìa về làm mắm làm khô là mỗi một vết hằn in đậm lên vầng trán lấm chấm đồi mồi của người chủ già nua… Và chúng tôi chợt hiểu được vì sao ông Hai lúc nào cũng muốn giữ lại mãi những ngày nắng sớm mưa chiều qua một đoạn đời cơ hàn cơm rau dưa mắm như vậy, không rời…

Bên hồ cá chép màu vàng, kế bên hông hồ cá chúng tôi, đàn cá chép dường như hớn hở lắm. Lúc nào các bạn ấy cũng lội tung tăng trên mặt nước như đang thi nhau vượt vũ môn bên chiếc tàu “Titanic” lắc lư theo dòng nước đang chảy róc rách quanh hồ. Mấy hôm nay ông Hai có thả thêm hai con cá he nghệ màu vẩy bạc với kỳ trên có một chấm đen trên nền màu vàng. Hôm mang hai con cá này về thả vào hồ cá chép, ông Hai kể cho bà Hai là hồi má ông còn sống, má ông có một cái thú vui là vào những ngày tản cư bà rất thích câu cá he trên sông. Má ông chỉ ngồi trước mũi ghe tam bản với cái cần câu bằng ngọn trúc, nhợ câu bằng dây gân, lưỡi câu không có ngạnh được uốn bằng cây kim may vá áo quần, loại kim đít vàng và mồi câu cá he là một hột cườm màu đỏ được luồn vào lưỡi câu rồi dùng dây chỉ buộc lại cho chặt để hột cườm không bị tuột ra. Và thêm một dùa cám rang cho vàng thơm phưng phức. Chỉ chừng ấy thôi, má ông Hai vừa ném một nhúm cám xuống dòng nước trong, cám theo nước trôi đi mang theo hương thơm của cám rang béo ngậy mời gọi những bầy cá he, cá thiểu, cá lòng tong quần tụ về trước mũi ghe tam bản. Và má ông Hai tay cầm cần câu với mồi hột cườm gắn sẵn mà vụt nhợ câu rồi giựt lên đều đều, liên tục như người nhạc trưởng điều khiển một ban nhạc đại hòa tấu. Cứ thế cá he, cá thiểu, cá lòng tong cứ mắc vào lưỡi câu và có cái rổ để sẵn ở bên cạnh, má ông Hai chỉ cần cho cá ngay vào cái rổ là tự động cá vùng vằng rồi xứt ra, khỏi phải gỡ cá như nhiều cách câu khác . Hết con cá này nuốt hột cườm rồi lại con cá khác nuốt hột cườm, cứ thế hột cườm thì chỉ có một miếng mồi còn nguyên mà trong rổ cả một bầy cá he, cá thiểu đang nằm khô vẫy. Nhưng cũng lạ là bầy cá he, cá thiểu dưới dòng nước trong vẫn cứ tụ hội về theo mùi thơm của cám rang vàng nghính để tiếp tục nuốt vội cái hột cườm màu đỏ tươi khô cứng trong lưỡi câu cũng nhỏ xíu như một trò giỡn chơi… Những năm tháng chạy giặc xa nhà như vậy, những con cá he má ông Hai câu được làm thành những bữa cơm ngon cho đàn con dại mà cũng khuây khỏa được chút nào lo buồn vì thời cuộc giặc giã lung tung phải bỏ nhà trống vườn hoang mà chạy lấy cái sống…

Nhưng có lẽ, hơn một lần ông Hai kể lại cho bà Hai nghe hồi còn nhỏ, sống ở nhà quê vùng làng Tân Bình, ông thường theo tía ông chận hầm, xúc ụ để bắt những chú cá he về nuôi ở một cái hồ dài như con rạch nhỏ phía sau vườn cam quít. Cái ụ nhỏ hình tròn như bồ lúa với cái cửa bề ngang khoảng hai thước được chận lại bằng cái tấm liếp tre cao khỏi mặt nước. Mỗi khi nhử cá vào ụ, tấm liếp tre này được giở hỏng lên khỏi mặt nước với cái ngọn tầm vông dài có đến ba bốn thước được đặt trên cái nạng cắm ngay giữa miệng ụ. Mồi nhử cá là cám rang thơm phức được rải đều trong ụ được bao bọc bởi một cái vòng tròn làm bằng cọng tàu lá chuối giữ cho cám khỏi trôi giạt ra bên ngoài, nhằm dụ cá vào trọn trong ụ. Đến khi theo dõi thấy cá vô ụ khá đông, tía ông Hai bèn rút cái ngọn tầm vông để tấm liếp tre sập xuống và chận cá đang mê mồi mắc kẹt trong ụ. Và lúc bấy giờ tía ông Hai mới dùng cái xịa tròn bằng cái nia hay cái rổ xúc mà xúc lấy cá. Những con cá he nghệ, cá mè vinh, cá vảnh, cá éc, cá mè lúi là những loại cá được chọn lựa để thả vào một cái hào rộng để nuôi cho lớn. Chính vì vậy mà hồi xưa nhà ông Hai lúc nào cũng có một ao cá he nghệ lên dọi vàng rực một màu vàng dưới làn nước trong veo bốn mùa. Và chị em tôi hiểu được phần nào khi nhận ra ông Hai cưng hai con cá he nghệ này coi mòi dữ lắm. Thế mới hay câu nói của một cô giáo trường làng nói sao mà có nghĩa quá chừng: “Dĩ vãng là một hồ sơ được xếp lại, nhưng khi mình mở ra nó lại mới ràng ràng”. Niềm thương nhớ nào mà không mới khi mình lại chợt nhớ lại một đoạn đời cũ qua rồi mấy mươi năm !

Chiều nay, một buổi chiều mùa Xuân nơi này mà nhiệt độ còn quá thấp. Có lẽ tiết trời bên ngoài khá lạnh nên hồ nước mà bọn tôi đang ở đang lạnh dần. Ông Hai vừa mở thêm một chút “hít” điện. Ánh lửa vừa nhấp nháy bật lên một tia sáng nhỏ nhoi treo lưng chừng nơi góc hồ. Chúng tôi lội vòng qua chỗ ánh sáng vừa mới lóe lên xem có gì lạ xuất hiện. Đến bên cạnh ngọn lửa sưởi, chị em tôi nghe nước ấm lại như mọi ngày, nên đứa nào cũng mừng lắm…Tiếng chuông ngoài cửa vừa bấm nhẹ. Tiếng mở cửa cũng nhẹ như hơi gió chạm vào vách lá. Và người bạn trẻ lại ghé thăm ông Hai chơi, mà chủ yếu là uống trà và nói chuyện cá mú cho vui nữa. Ngồi vào cái ghế như mọi khi, người bạn trẻ hỏi: Ông Hai có khoẻ hông? Tiếng ông Hai trả lời nhỏ xíu:

– Lúc nào cũng rề rề, mà vẫn phải cày sâu cuốc bẫm, nên khỏe hết nổi.

Chị em tôi thấy khách lại nhà nên đứa nào cũng luống cuống, lội lòng vòng rồi vào núp bên những gốc chà màu rêu xanh đậm. Bà Hai mang ra bình trà nóng và hai cái chung uống trà. Hai người bạn, một già một trẻ, rót cho nhau từng giọt nước trà xanh bốc hơi như chút tình bé nhỏ còn sót lại sau bao mùa tuyết qua rồi, cây cối lại xanh um nơi vùng đất lạ này. Nhìn chung quanh, người bạn trẻ thấy khung cảnh căn phòng không mấy thay đổi gì khác. Cũng vẫn cảnh cũ quen thân, cũng với hồ cá chép vàng tung tăng lội bên bụi rau sà lách son rỉa từng chiếc lá làm mồi, cũng với hồ cá sặt chờn vờn đòi ăn khi có bóng người đến gần, mà sao trong lòng người bạn trẻ thấy có điều gì hơi mới lạ. Thì ra, người bạn trẻ nhận ra chúng tôi thích dựa lưng vào những gốc cây màu tràm lục như căn nhà yên ấm lắm và cứ trầm trồ hoài về cảnh vật trong hồ cá thác lác còm. Bỗng người bạn trẻ lấy trong cái bóp nhỏ một con tem thơ in từ Việt Nam in hình hai con “cá còm”, mỗi con với chín chấm màu đen trên nền vẩy bạc, để ông Hai xem thử. Con tem thơ đề giá là ba ngàn đồng. Ông Hai trầm ngâm một hồi, nhấp giọng bằng một chút trà, rồi mới hỏi:

– Bưu chính cũng biết đến cá thác lác còm nữa sao?Người bạn trẻ đặt chung trà xuống bàn rồi đáp:

– Cá thác lác còm là loại cá được chú ý nhiều ở vùng này ông Hai à, nói gì ở bên mình.

Nghe người bạn trẻ nói vậy, ông Hai nhìn cái hồ có ba chị em chúng tôi đang bơi lội, rồi đưa ra nhận xét về một luồng đang tìm về loài cá bổi:

– Từ ngày có người nuôi cá thác lác còm như mình, các tiệm cá lại tìm loại cá này về bán khá nhiều và giá lại mắc như cắt cổ chứ không còn rẻ rề như mấy lúc trước nữa. Chú em có thấy vậy hông?Người bạn trẻ đáp:

– Loài cá thác lác còm mà lên hình trên tem thơ rồi, thì giống cá này đâu còn là cá bổi nữa ông Hai!Chị em chúng tôi nghe người bạn vong niên của ông Hai nói vậy lại càng rầu. Chị em tôi rầu vì từ trong tên gọi, mình chẳng là gì rồi nói gì đến tên tuổi, tiếng tăm với đời. Người Trung Hoa gọi chúng tôi với cái tên “thất tinh ngư” là cá với bảy chấm đen in trên mình như bảy ngôi sao; người Mỹ gọi là “lưỡi dao thằng hề”; người Ai Lao gọi chúng tôi với cái tên ngồ ngộ là “ba thoi” có nghĩa là “chiếc lá”; người bình dân vùng đồng bằng sông Cửu Long lại gọi “thác lác còm” để phân biệt với loài thác lác trắng không có chấm đen; còn bưu chính lại nghèo nàn hơn, gọi gọn lỏn là “cá còm”.

Từ những tên gọi như vậy, bạn thấy mỗi nơi mỗi hình dung chúng tôi theo cách khác nhau, nhưng chung qui cũng chỉ là một tên gọi thật cục mịch, nghèo nàn. Nên chị em tôi hết sức rầu là vì mình sắp sửa bị mất dần cái gốc chính thống khi bị người đời đưa mình đi xa dần cái cội nguồn trên sông nước Cửu Long lúc nào không ai biết trước được. Xa con sông đã buồn tha thiết rồi, mà nay lại xa dần cái gốc cá bổi lại càng buồn hơn bội phần, chứ vui sướng gì những gió sớm mưa chiều… Ba chị em tôi nhìn nét mặt ông Hai hơi rầu rầu, nhưng đôi mắt vẫn sáng rực. Ông Hai mới chậm rãi nói:- Chuyện đời đâu phải ai cũng muốn người ta biết mình. Sống thầm lặng như một giống cá bổi này cũng đâu phải là “một chuyện dễ gì !” (*)Người bạn trẻ hiểu ra cái ý ông Hai, nên không còn nhắc đến một chút danh hão mà chúng tôi được gán ghép ngoài đời nữa. Chị em tôi hơi yên bụng khi câu chuyện giữa hai người không còn nhắc bàn đến số phận giống cá thác lác còm như một loài cá quí nữa.

Bỗng dưng chúng tôi lại nhớ về những vạt lung đầy rong đuôi chồn pha lẫn nhiều loài rong trầm thủy khác, những ổ cá chìm sâu dưới làn nước ngọt hiền hòa, những căn nhà ấm cúng làm bằng những nhánh chà me nước đầy gai nơi các đầu doi đuôi vịnh mà chúng tôi biết bao lần nương náu qua những dặm trường. Không biết trong trời đất, ngoài ông Hai, có ai đã hiểu được rằng chúng tôi không bao giờ muốn xa cái gốc cá bổi này không ?!?Như để chia sẻ với người lớn tuổi hơn mình về cái gốc gác nhà quê, người bạn trẻ của ông Hai mời ông Hai thêm chút nước trà, rồi mới nói :

– Chuyện cá, chuyện đời nghĩ cũng vui vui!

Câu chuyện đến đây theo lẽ đã dừng lại rồi, nhưng thưa bạn, dòng đời còn trôi và thân phận mấy chị em chúng tôi còn mấy phen lênh đênh trôi nổi thêm nhiều bận nữa. Số là, sau đó, thời tiết thì quá khắc nghiệt bên ngoài nơi vùng Đông Bắc này mà trong hồ kiếng, chúng tôi mỗi ngày mỗi lớn và dĩ nhiên rồi, ba chị em chúng tôi ăn cũng hơi nhiều … Và dường như càng lớn chừng nào, loài cá thác lác còm chúng tôi ăn càng nhiều thêm, đã đành, nhưng chúng tôi có cái bịnh này cũng hơi ngặt là trong phần bài tiết, chúng tôi tiết ra nhiều chất nhớt khá tanh. Chất nhớt ấy lan tỏa mùi tanh nhiều lúc chúng tôi còn không chịu nổi nói gì người khác phải ngửi mãi mùi nước trong hồ tanh rình này. Ông Hai thương chúng tôi dữ lắm nên ông cứ thấy mùi tanh là ông lại thay nước trong hồ rồi khử thuốc an toàn cho cá mỗi tháng hai ba lần, riết rồi chúng tôi cũng ngại quá nhưng biết làm sao hơn khi đời sống mỗi loài có những nhu cầu riêng như vậy. Chúng tôi chỉ còn biết nằm nơi góc hồ dưới những bóng rong mà chờ giờ giấc đi qua mỗi ngày với những bữa ăn từ bàn tay gầy của ông chủ già nua của mình…

Thế rồi, vào một buổi chiều nắng ấm, chúng tôi thấy ông Hai vớt chúng tôi ra một cái thùng lớn chứa đầy nước chừng vài chục lít, mà ở đây người ta hay dùng cách tính là năm hoặc sáu gallon gì đó chúng tôi không rành lắm. Ông Hai mới đem chúng tôi ra một tiệm bán cá cách đó khá xa và nói chuyện với ông Leo là người chủ tiệm. Thì ra, vì hết chịu nổi cảnh ăn cá con, cảnh ngửi mùi tanh của nhớt cá và nhứt là ông Hai sợ tội trong việc cá chậu chim lồng, ông có lần dự tính mang tôi về hồ Avon phóng sanh chúng tôi về với ao sâu hồ rộng giữa thiên nhiên muôn trùng nhưng ông chủ của chúng tôi lại lo chúng tôi không chịu nổi cái lạnh vào mùa đông nơi này nên ông không đành thả chúng tôi vào cái hồ giữa rừng nguyên sinh ấy. Nghĩ mà thương cho ông và cũng thương cho mình, nếu có bề gì chắc là chúng tôi sẽ chết trong những mùa tuyết giá ấy.

Sau cuộc trò chuyện giữa ông Hai và chủ tiệm bán cá mà ông Hai quen mua mồi cho chúng tôi, chúng tôi được thả vô một cái hồ kiếng lớn thiệt là lớn và với chúng tôi là một bước dừng chân tới một nơi mới mẻ nữa. Xem chừng ông Hai còn bịn rịn ở lại nơi này với chúng tôi ít giờ nữa và ông ra về mà nghe như vừa làm một điều gì đó ngoài mong muốn và cũng vừa phải đắn đo suy nghĩ qua nhiều ngày. Thỉnh thoảng năm ba hôm, ba chị em chúng tôi thấy ông Hai trở lại một lần và đứng bên hồ chúng tôi đang ở và cứ đứng nhìn chúng tôi hoài như thầm nói một điều gì nhưng rồi ông Hai không nói gì. Chúng tôi thì ngày nào cũng vậy, cứ ở đây hoài chờ một cái gì đó sẽ tới với mình mà mình không biết nó sẽ tới như thế nào và không lúc nào chúng tôi quên được người chủ già nua của chúng tôi qua bao mùa mưa tuyết lạnh giá nơi này với những niềm thương mến kẻ lạc loài mà ông đã dành cho…

Thôi thì chỉ còn biết xin cảm ơn ông Hai, cảm ơn đời và cảm ơn những tấm lòng bao dung độ lượng của những tâm hồn quê mùa chơn chất giữa trùng khơi lạc bước này vậy ….

LTT
Phụ chú
(*) Chữ dùng của Nguyễn Hiến Lê trong Sử Ký Của Tư Mã Thiên.