Nơi miền quê miệt Long Xuyên- Châu Đốc có các kinh rạch như con sông chảy vô Núi Sập, Ba Thê, rồi lên nữa có rạch Mặc Cần Dưng vô Cần Đăng, Tri Tôn; phía trên nữa có kinh xáng Vịnh Tre, rạch Cái Dầu; đổ qua Tân Châu,
Cao Lãnh, xuống Sa Đéc bên sông trước với Tùng Sơn, Mỹ An Hưng, Tân Mỹ, Tân Quí Đông, Tân Quí Tây cũng như về sông Hậu Giang từ Vàm Cống chạy dài xuống Thốt Nốt dọc theo các vùng quê Cái Dầu, Định Yên, Hòa Lạc, Định An, Lai Vung thuộc phần đất Lấp Vò cũ, và giữa dòng sông cái với các cù lao vùng Tân Lộc Đông, Tân Lộc Tây thuộc Thốt Nốt hoặc kinh Cái Sắn vô vùng Tân Hiệp vào mùa tháng năm nước đục là cả một vùng sông rạch rộng bao la. Mùa thả lưới cá mè vinh, cá dảnh, cá hô, cá tra, cá vồ, cá bông lau từ miệt Biển Hồ trên Cao Miên tràn xuống vùng châu thổ miền Tây Nam Phần này như những ngày hội thả lưới thưa bắt cá trắng vào mùa.
Những năm 1950, dân cư các vùng này thường sắm lưới rất thưa, nhứt là lưới thả ngoài sông Cái thì lỗ lưới có người đan cỡ một tấc là ít. Còn trong các rạch nhỏ thì mặt lưới nhỏ hơn nhưng nhỏ gì thì nhỏ mỗi lỗ lưới căng ra đo được cỡ tám phân. Sở dĩ ngày xưa vào mùa này dân ruộng ưa sắm lưới thưa vì cá nhiều và cá lớn, nên ít ai sắm lưới dày.
Lưới hồi đời trước người ta tự đan lấy và đan bằng chỉ, bằng gai nếu muốn bắt cá lớn; còn bắt cá rô người ta thích đan lưới bằng tơ vừa mịn vừa bén cá. Với mùa thả lưới tháng năm, dân quê đan lưới xong và bắt viền sao cho lưới không quá dùn mà cũng không căng mặt quá thẳng. Vì nếu bắt lưới mà dùn quá khi cá gặp lưới cá không chịu đâm vào lưới, nhưng bắt lưới căng mặt quá thì mặt lưới không có tùng đủ để giữ con cá khi cá vướng lưới. Do vậy, theo kinh nghiệm nhiều mùa người ta bắt viền trên hơi thẳng và viền dưới hơi dùn để cá đâm vô lưới là dính liền không vùng vẫy đi đâu được.
Thường thường vào mùa này, lưới thả thường căng ngang sông rạch nếu sông rạch nhỏ, ít khi thả lưới cặp mé bờ. Lưới sau khi bắt viền xong, dân quê bắt thêm phao viền trên. Phao thường được chuốt từ thân gỗ xốp như cây gòn vì gòn nhẹ và làng quê miền Tây nơi nào cũng có trồng gòn. Nếu không làm phao bằng cây gòn, người ta làm phao lưới bằng gỗ cây vông đồng, loại cây thường dùng là guốc vông những năm thập niên 1940, 1950, ván cây vông cũng nhẹ như gòn. Vả lại vông đồng là loại cây mọc hoang nên vườn tre nào ngày xưa cũng có cây vông đồng mọc đầy. Về sau này khi có lưới đan bằng nilon, người ta cũng chế ra phao lưới làm bằng nhựa nilon luôn thể. Phao lưới được kết ở viền trên và hai phao cách nhau khoảng từ năm tới sáu, bảy tấc là vừa, vì kết xa quá lưới dễ bị chìm mà kết nhặt quá thì lại tốn nhiều phao. Ngoài phao ra, viền trên người ta còn gắn những cây cờ bằng vải vàng, xanh hình cánh bướm nhằm cho xuồng ghe tàu bè thấy lưới đang thả mà tránh.
Riêng viền dưới vì muốn cho khi thả lưới thì dạo lưới phải thẳng, nên người ta kết chì; giữa hai cục chì cách nhau cũng cỡ năm tấc là vừa. Vì lòng sông, lòng rạch vào mùa này thường sâu nên dạo lưới ít nhất cũng phải một thước rưỡi nếu lưới thả trong các rạch nhỏ như rạch Mặc Cần Dưng, còn lưới thả ngoài sông Cái, dạo lưới phải dài hơn, có khi bề dạo dài tới hai thước tây mới đủ sức bắt cá hô, cá bông lau, cá vồ cờ, cá tra, cá vồ đém, cá leo, cá kết…
Miệt Hòa Lạc, Định An, Định Yên, Lai Vung ngày nay còn giữ được cách thả lưới bắt cá bông lau trên các vịnh thuộc sông Hậu Giang dù ngày nay cá bông lau không còn nhiều như cách nay hơn nửa thế kỷ. Hồi đời xưa chẳng những các vùng vừa kể mà đâu đâu cũng vậy, ai muốn thả lưới bắt cá lớn trên sông rạch thì cứ thả; còn ngày nay vùng Hòa Lạc phải chờ tới phiên, tới chuyến mới tới mình thả lưới bắt cá bông lau. Có nhiều người phải chờ tới một tuần hoặc mười ngày mới tới phiên mình. Có người tới phiên rồi, lưới lại không dính cá, phải chờ đáo phiên lần nữa… Thiệt là mỏi mòn trông đợi mấy chị cá bông lau béo ngậy này vướng lưới, chứ đâu phải dễ dàng gì. Ngày nay khác ngày xưa là vậy.
Những năm 1945, miệt Mặc Cần Dưng mùa thả lưới tháng 5 này cá dính thường là cá mè vinh, cá dảnh rất lớn với cặp trứng thè lè. Lúc bấy giờ có con lớn bằng cái dĩa bàn. Lưới thường thả vào lúc nước đứng ròng. Sở dĩ vậy vì dân quê đón cá đi ăn khi nước lớn và lúc nước đứng ròng chúng chuẩn bị về chà, và người ta thả lưới lúc này là nhằm bắt cá về chà. Có khi người ta thả lưới lúc nước đứng lớn là cũng nhằm bắt cá từ trong các đống chà ra sông để kiếm ăn. Nhưng khi nước lớn mạnh cũng như nước ròng mạnh thì dân quê cuốn lưới lên và bơi xuồng về nghỉ ngơi dù đặng thất gì cũng nghỉ vì nước lớn hoặc ròng mà chảy xiết thì lưới dễ bị trôi xa và rách lưới.
Giăng Lưới Cá Rô
Tháng Bảy, tháng Tám âm lịch là ngưng thả lưới dưới sông vì cá đã lên đồng nhiều rồi. Dân quê theo cá lên đồng mà bủa lưới cá trên đồng. Vào những tháng đầu mùa này, người ta có lưới cá rô, hồi xưa cũng đan bằng chỉ, bằng gai chứ không có lưới nilon như sau này. Đặc biệt lưới cá rô viền dưới không cần phải bắt chì và dạo lưới rất ngắn, cỡ tám tấc vì cá rô ưa ăn mồi trên mặt nước. Lưới cá rô đầu mùa thì dày, lỗ lưới cỡ 2 phân rưỡi. Đến tháng 9, tháng 10, cá rô lớn rồi và lưới cá rô cũng lớn theo và mặt lưới cỡ 4 phân, 4 phân rưỡi. Hồi xưa, lưới cá rô mà lỗ lưới cỡ 4 phân, 4 phân rưỡi thường bắt cá rô mề, có con gần bằng cườm tay, bụng đầy mỡ, béo lắm. Vào mùa lúa giáng, nhất là món lúa sóc so, có gạo mới mà nấu cơm ăn với cá rô lưới 4 phân, 4 phân rưỡi muối sả ớt chiên cho vàng, ăn cơm hết nồi hồi nào không hay. Ngon lắm!
Cá rô câu khác cá rô lưới ở chỗ cá rô câu thì có cá nhỏ, cá lớn lộn xộn; nhưng cá rô lưới thì cá dính một cỡ với nhau đều rang, hổng có con lớn con nhỏ như cá rô câu. Người nhà quê nói cá rô lưới là cá lựa là vậy.
Giăng lưới cá rô tháng 9 trên cánh đồng Tân Bình (Lấp Vò)
Hồi đời trước giăng lưới cá rô là giăng nền nằm, cố định một luồng, chứ ít khi dời luồng mới như sau này. Dân quê bủa lưới theo các giồng ranh lúa mùa khi mùa nước ngập sâu cá vô cạn kiếm mồi là dính lưới. Khi bủa lưới xong, người ta nằm sấp xuống mũi xuồng, tay trái nắm viền lưới, tay mặt quạt quạt nước cho dạo lưới thẳng và chìm xuống gần sát mặt đất. Chốc chốc, dân giăng lưới ngoái lên bốc một nắm lúa ngâm rải dọc theo luồng lưới dưới lườn xuồng làm mồi nhử cho cá bu lại ăn rồi dính lưới. Ngày xưa cá rô mê mùi lúa ngâm lâu ngày.
Sau này, thập niên 1970, 1980, dân giăng lưới cá rô không dùng lúa ngâm làm mồi nữa, mà dùng xác mắm cá linh trộn với cám rang và bùn non làm mồi. Và họ cũng không cần phải nằm sát mũi xuồng dằn lưới như xưa nữa. Cách bủa lưới sau này là vừa ngồi ngay mũi xuồng, một chưn xếp bằng trên xuồng, một chưn kia cho xuống nước nhằm đẩy vào cỏ cho mũi xuồng đi tới. Họ bủa lưới tới đâu, tiện tay lấy chút xác mắm cá linh trộn với cám rang và chút bùn non rải tới đó làm mồi.
Sau khi bủa xong hết lưới trên xuồng, họ mới bắt đầu quay trở lại và nằm sấp nơi mũi xuồng mà dằn lưới như ngày trước. Dằn lưới cách này, khi họ bắt đầu trở lại dằn lưới và rải mồi một lần nữa, cho tới khi giáp hết các luồng lưới vừa bủa xong, chẳng khác nào họ thăm được một giác lưới rồi.
Lợi là lợi chỗ đó vì cá rô thì ưa ăn mồi xổi, nên dân ruộng biết cá thích ăn mồi bất kể chết nên dụ cá dính lưới bằng cách vừa bủa lưới vừa rải mồi. Nhưng giăng lưới cách này có cái hại là cá dính qua một bận là hết cá, nên dân giăng lưới phải dời luồng đi chỗ khác, nếu làm biếng không dời lưới thì cá không còn dính bao nhiêu vì cá có bao nhiêu dính hết lúc mới bỏ mồi rồi.
LTT
Kỳ tới Giăng Luới Cá Linh